Hợp tác kênh Đảng dẫn dắt quan hệ Việt Nam - Trung Quốc phát triển
Quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc có lịch sử khá đặc biệt. Những người cộng sản của hai nước có quan hệ gắn bó với nhau từ những ngày Đảng còn thai nghén, chưa ra đời. Bởi vậy suốt 100 năm qua, trong mọi hoàn cảnh khác nhau dù khó khăn hay thuận lợi, trục quan hệ hai đảng vẫn luôn đóng vai trò cốt lõi trong quan hệ giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
Nhìn lại hơn 30 năm qua kể từ khi bình thường hóa quan hệ, có thể thấy đây là một giai đoạn mới trong quan hệ hai nước. Mặc dù trải qua những chặng gập ghềnh gian nan nhưng quan hệ hợp tác giữa hai nước đã từng bước được củng cố và phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề tồn tại đã được giải quyết. Đó là kết quả từ những nỗ lực của nhiều bộ ngành, từ Trung ương đến địa phương của cả hai phía, nhưng không thể phủ nhận vai trò dẫn dắt của quan hệ Đảng.
Hiếm có mối quan hệ song phương nào trong khu vực và trên thế giới, ngoài các kênh chính thức của nhà nước và kênh nhân dân, lại có một kênh giao lưu ổn định, có quyền uy và hiệu quả như kênh giao lưu giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hơn 30 năm qua, mối quan hệ đó được thể hiện ở những thời điểm quan trọng.

Chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 30-10 đến 1-11-2022 theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là sự kiện đặc biệt quan trọng trong quan hệ hai nước. (Nguồn: TTXVN)
Kênh Đảng được giữ vững trong mọi hoàn cảnh
Quan hệ Việt - Trung đã trải qua 10 năm vô cùng khó khăn và căng thẳng, bất lợi cho sự phát triển của mỗi nước và sự ổn định của khu vực giữa lúc tình hình thế giới có những chuyển biến phức tạp. Nhưng cùng thời điểm đó, công cuộc đổi mới của Việt Nam và cải cách mở cửa của Trung Quốc có những tiến triển tích cực. Xuất phát từ tình hình trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển và ổn định lâu dài của cả Trung Quốc và Việt Nam, lãnh đạo cấp cao hai Đảng đã quyết định khởi động quá trình bình thường hóa quan hệ. Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6-1991) khẳng định tư duy đổi mới về quan hệ quốc tế với tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, đồng thời công khai khẳng định chủ trương “thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác quan hệ Việt - Trung, giải quyết những vấn đề còn tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng”.[1]
Chuyến thăm chính thức Trung Quốc tháng 11-1991 của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ hai nước, hai bên ra tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ.
Kể từ khi bình thường hóa đến nay, về tổng thể quan hệ phát triển theo hướng đi lên dù vẫn trải qua những chặng gập ghềnh và thăng trầm. Có những thời điểm khó khăn, song song với giao lưu, đấu tranh, thúc đẩy giải quyết bất đồng, hai Đảng vẫn duy trì ổn định, thực hiện các kế hoạch trao đổi hằng năm, bao gồm cả gặp gỡ cấp cao, hội thảo lý luận, giao lưu các ban Đảng, các chương trình hợp tác đào tạo đều giữ đúng tiến độ.
Việc duy trì ổn định kênh Đảng trong những lúc quan hệ gặp khó khăn như vậy có tác dụng định hướng cho các mối quan hệ trên các lĩnh vực khác, không để các bất đồng song phương vượt ra ngoài tầm kiểm soát.
Những quyết định quan trọng từ các cuộc gặp giữa Tổng Bí thư hai Đảng
Kể từ năm 1991 đến nay, giao lưu cấp cao mà quan trọng nhất là các cuộc gặp gỡ giữa hai Tổng Bí thư hai Đảng diễn ra rất thường xuyên. Tổng Bí thư hai Đảng đã thực hiện 17 chuyến thăm lẫn nhau. Trừ mấy năm đại dịch không thể bố trí gặp gỡ. Kể từ năm 2013, hai Tổng Bí thư hàng năm có các cuộc điện đàm qua đường dây nóng trong những dịp diễn ra các sự kiện quan trọng của hai nước.
Những quyết định mang tính chỉ đạo quan hệ Việt - Trung trong suốt hơn 30 năm qua đều được đưa ra trong các chuyến thăm lẫn nhau của Tổng Bí thư hai Đảng. Xin điểm lại một số mốc quan trọng:
Tháng 11-1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc, hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc Vụ viện Lý Bằng, hai bên ra Thông cáo chung, tuyên bố bình thường hóa quan hệ hai Đảng, hai nước.
Tháng 7-1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc. Trước khi kết thúc chuyến thăm, rời thành phố Côn Minh về nước, Tổng Bí thư Đỗ Mười gửi đến Tổng Bí thư Giang Trạch Dân một lá thư, khẳng định lại một số thỏa thuận quan trọng, trong đó nêu kiến nghị xác định rõ ràng thời hạn giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và trên Vịnh Bắc Bộ. Cụ thể là giải quyết xong vấn đề biên giới trên bộ trong năm 1999 và vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000. Một tháng sau (tháng 8-1997), Tổng Bí thư Giang Trạch Dân có thư phúc đáp, hoàn toàn tán thành ý kiến của Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Tháng 2-1999, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc, hai bên điểm lại những bước tiến trong quan hệ sau 8 năm bình thường hóa và thấy rằng cần phải có định hướng rõ ràng hơn để quan hệ hai nước phát triển một cách ổn định và bền vững lâu dài. Hai bên đã xác định phương châm chỉ đạo quan hệ Việt - Trung trong thế kỷ 21 bằng 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Cũng trong chuyến thăm này, thực hiện thỏa thuận giữa hai Tổng Bí thư năm 1997, hai bên tuyên bố “quyết tâm đẩy nhanh tiến trình đàm phán, nâng cao hiệu suất công tác, ký kết Hiệp ước về biên giới trên bộ trong năm 1999; giải quyết xong vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000”.[2] Như vậy, thời hạn giải quyết hai vấn đề quan trọng về biên giới lãnh thổ đã được xác định rõ ràng và công khai.
Tháng 11-2005, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào thăm hữu nghị chính thức Việt Nam, hai bên lấy “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” làm mục tiêu phấn đấu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, sau này được gọi là “tinh thần 4 tốt”.
Tháng 6-2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc, hai bên nhất trí nâng quan hệ Việt - Trung lên thành “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”.
Tháng 10-2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Trung Quốc, hai bên ký “Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc”.
Tháng 10-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Trung Quốc là chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng. Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sau Đại hội XIII của Đảng và diễn ra ngay sau khi Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa kết thúc. Những nhận thức chung của hai Tổng bí thư đã tháo gỡ những bế tắc tồn tại trong thời gian cả hai nước phải đối phó với đại dịch Covid-19, mở ra một giai đoạn phát triển mới, thuận lợi hơn cho quan hệ hợp tác song phương.
Ngoài các cuộc gặp gỡ giữa hai Tổng Bí thư, thông qua kênh Đảng, các Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, lãnh đạo các Ban Đảng hai bên đã tiến hành các chuyến thăm, giao lưu, trao đổi thông tin và thảo luận về những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm. Gặp gỡ tiếp xúc cấp cao hai Đảng đã trở thành truyền thống, giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giữ vững định hướng phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước.
Trao đổi lý luận là hoạt động hợp tác thực sự bổ ích
Hợp tác nghiên cứu lý luận giữa hai Đảng đã trở thành điểm sáng trong quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong bối cảnh các Đảng Cộng sản cầm quyền không còn nhiều, mấy chục năm qua, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành công cuộc đổi mới và cải cách mở cửa, xây dựng những mô hình chưa có tiền lệ, việc trao đổi, tham khảo lẫn nhau về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn đã trở thành nhu cầu của cả hai bên.
Đến nay, hội thảo lý luận giữa hai Đảng đã diễn ra 17 cuộc (kể cả hội thảo trực tuyến). Ngoài hội thảo lý luận do lãnh đạo cấp Ủy viên Bộ Chính trị hai Đảng chủ trì, nhiều cơ quan nghiên cứu lý luận, các ban ngành liên quan cũng tiến hành nhiều cuộc trao đổi lý luận trên nhiều lĩnh vực, như Tạp chí Cộng sản với Tạp chí Cầu thị, Báo Nhân Dân với Nhân dân nhật báo, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với Trường Đảng Trung ương Trung Quốc, trao đổi chuyên đề giữa Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam với Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc v.v... Các cuộc hội thảo và trao đổi lý luận này không những là cơ hội tham khảo lẫn nhau về lý luận, bổ sung cho nhau về kinh nghiệm thực tiễn, mà còn tăng thêm hiểu biết lẫn nhau và góp phần tăng cường tin cậy lẫn nhau. Trao đổi lý luận giữa hai Đảng cũng đã làm phong phú thêm kho tàng lý luận xây dựng đảng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi Đảng, mỗi nước, đồng thời có giá trị tham khảo cho các đảng anh em khác.
Tuy nhiên, học tập lẫn nhau không có nghĩa là bắt chước. Đó chỉ có giá trị tham khảo, còn phải trải qua quá trình nghiên cứu, chọn lọc để áp dụng thích hợp cho mỗi đảng, mỗi nước.
Trực tiếp tham gia thúc đẩy giải quyết các vấn đề bất đồng
Hơn 30 năm qua, thành tựu nổi bật nhất là hai bên đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản tồn tại giữa hai nước do lịch sử để lại. Hai bên đã đạt được nhiều thỏa thuận mang tính nguyên tắc và hai Chính phủ đã thiết lập các cơ chế giải quyết như Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương, các cơ chế đàm phán, các tổ công tác v.v... Trong đó, quan trọng nhất là thỏa thuận đạt được giữa hai Tổng Bí thư năm 1997, công bố năm 1999 về quyết tâm giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền và trên Vịnh Bắc Bộ đã được thực hiện thành công đúng thời hạn.
Trước những vấn đề nảy sinh làm quan hệ trở nên xấu đi, thậm chí căng thẳng, ngoài việc trao đổi ý kiến tại các cơ chế đã có, hai bên đã phải tiếp xúc, trao đổi ý kiến qua kênh Đảng. Thực tế cho thấy cách tiếp xúc kênh đảng là thiết thực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề nhanh chóng và thỏa đáng hơn.
Nhìn lại hơn 30 năm qua và xa hơn là 100 năm qua, quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn đóng vai trò cốt lõi trong lịch sử quan hệ hai nước. Đến nay, trong bối cảnh mới, quan hệ đó có thể không giống như những năm 1950, 1960 của thế kỷ trước, nhưng vẫn giữ một vai trò quan trọng. Thời gian tới, với vai trò nòng cốt của quan hệ Đảng và truyền thống hợp tác giữa hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, chúng ta thấy rằng những thỏa thuận quan trọng mà lãnh đạo cấp cao hai bên đã đạt được sẽ là phương hướng phấn đấu đúng đắn cho quan hệ hữu nghị Việt -Trung, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì sự ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.
NGUYỄN VINH QUANG, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Phát triển quan hệ quốc tế; nguyên Vụ trưởng Vụ Trung Quốc – Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng
---
[1] Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII 1991.
[2] Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc năm 1999.
* Bài viết đăng trên Báo Quân đội Nhân dân điện tử, CSSD đăng lại với sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang
Xem thêm
|
Việt Nam tham gia Liên hợp quốc: Hành trình 45 năm đủ để cất lên hai tiếng 'tự hào', một vị thế mới đón thời cơ mới Baoquocte.vn. Câu chuyện Liên hợp quốc (LHQ) chính thức kết nạp Việt Nam là thành viên 45 năm trước có ý nghĩa rất lớn.
.jpg)
Ngày 20/9/1977, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của LHQ. Trong ảnh: Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh (thứ hai, từ phải sang) dự lễ kéo cờ Việt Nam tại trụ sở LHQ. (Ảnh: Tư Liệu)
Chương mới trong quan hệ với thế giới
45 năm trước, Việt Nam vừa chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, thống nhất đất nước. Khi ấy, Việt Nam là biểu tượng của phong trào giải phóng dân tộc, giành được rất nhiều tình cảm của nhân loại.
Tuy nhiên, bên cạnh niềm vui độc lập và thống nhất đất nước, Việt Nam lúc đó đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, khi vừa bước ra khỏi chiến tranh, cùng với nền kinh tế, kỹ thuật lạc hậu. Về mặt đối ngoại, nước ta đang còn bị bao vây, cấm vận của nhiều nước.
Bởi vậy, nhìn lại 45 năm qua, kể từ khi Việt Nam tham gia LHQ năm 1977, có thể rút ra một số điểm có ý nghĩa sau:
Thứ nhất, đó là việc công nhận một Việt Nam mới, hòa bình, thống nhất, độc lập và tham gia vào các cơ chế quốc tế, dù khi đó vẫn đang còn bị cấm vận.
Đó cũng là kết quả của cả quá trình hình thành và phát triển phong trào rộng rãi các nước ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của Việt Nam.
Việc chính thức gia nhập tổ chức toàn cầu lớn nhất này đã mở ra chương mới trong quan hệ của Việt Nam với thế giới, từ đó tạo điều kiện cho Việt Nam không chỉ tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế cho tái thiết đất nước, mà còn ngày càng tham gia, đóng góp sâu rộng hơn vào các công việc chung của LHQ và của thế giới.
Ngay sau khi nghị quyết chấp thuận Việt Nam trở thành thành viên của LHQ, tổ chức này đã ra nghị quyết kêu gọi, giúp đỡ, hỗ trợ Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh, xóa đói giảm nghèo. Đây là bước khởi đầu lớn, tạo cơ sở được công nhận bởi LHQ trong việc vận động quốc tế giúp đỡ Việt Nam.
Trong những năm Việt Nam còn bị cấm vận, từ 1977 cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, LHQ là tổ chức giúp đỡ Việt Nam nhiều nhất, từ việc khắc phục hậu quả chiến tranh đến xóa đói giảm nghèo, phát triển và nhiều sự trợ giúp khác.
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, LHQ là một trong những tổ chức đi đầu giúp đỡ Việt Nam hoạch định các chính sách và chương trình hành động về đổi mới, cải cách kinh tế, cải cách hệ thống pháp luật, hỗ trợ Việt Nam thúc đẩy phát triển và hội nhập quốc tế.
Đồng hành, đóng góp hiệu quả vào công việc chung
Thứ hai, cùng với các thành tựu về đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế, Việt Nam đồng hành và đóng góp ngày càng hiệu quả vào các công việc chung của LHQ và thế giới. Điển hình nhất là việc Việt Nam tham gia vào hoạch định và thực hiện các Chương trình mục tiêu Thiên niên kỷ và Phát triển bền vững tới 2030 của LHQ, trở thành điển hình về hợp tác và thực hiện hiệu quả các chương trình hành động của LHQ.
Theo đó, chúng ta cũng tích cực tham gia vào các chương trình hợp tác của LHQ về môi trường, biến đổi khí hậu, phòng, chống dịch bệnh hay xóa đói giảm nghèo và giúp đỡ những người bị yếu thế. Việt Nam cũng đã tích cực phối hợp cùng LHQ triển khai các sáng kiến về hợp tác ba bên giúp đỡ các nước ở châu Phi như về nông nghiệp, lương thực, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo. Đây là quá trình hai bên cùng hợp tác và thúc đẩy vì những mục tiêu chung.
Thứ ba, Việt Nam luôn đề cao và tích cực đóng góp vào việc tăng cường các nguyên tắc của Hiến chương LHQ và Luật pháp quốc tế, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển chung của các dân tộc. Đây cũng là nguyên tắc nhất quán trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ các nỗ lực của LHQ về vấn đề này như: Đề cao hợp tác, đối thoại, giải quyết hòa bình các tranh chấp, giải trừ vũ khí hạt nhân hay ủng hộ và đề cao văn hóa hòa bình trong quan hệ quốc tế.
Khi tham gia Hội đồng Bảo an LHQ, Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến quan trọng như: Đề cao Hiến chương LHQ và chủ nghĩa đa phương, giúp đỡ tháo gỡ bom mìn, bảo vệ phụ nữ, trẻ em hay bảo vệ các cơ sở dân sự thiết yếu trong chiến tranh, nhận được sự ủng hộ và nhất trí cao của các nước thành viên LHQ. Việt Nam cũng đã và đang tích cực tham gia vào hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ, được LHQ và các nước đánh giá cao.
.jpg)
Trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an tháng 1/2020, Việt Nam đã chủ trì Phiên thảo luận mở và thúc đẩy HĐBA thông qua Tuyên bố Chủ tịch về Hiến chương LHQ. (Ảnh: QT)
Từng bước tham gia, phát huy vai trò
Thứ tư, Việt Nam từng bước tham gia và ngày càng phát huy vai trò tại các cơ quan lãnh đạo của LHQ. Từ nửa sau những năm 90, Việt Nam đã tham gia vào một số cơ quan lãnh đạo của Chương trình phát triển LHQ (UNDP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), rồi đến Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO), Cơ quan Nguyên tử năng lượng quốc tế (IAEA) hay Hội đồng Nhân quyền.
Việt Nam đã hai lần tham gia làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an - cơ quan chịu trách nhiệm chính về hòa bình an ninh của LHQ (các nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021). Với những vai trò này, Việt Nam vừa tích cực đóng góp vào công việc chung, đồng thời góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam tại LHQ và trên trường quốc tế.
Thứ năm, trong quá trình tham gia LHQ, chúng ta đồng thời đề cao các nguyên tắc Hiến chương và các văn kiện quan trọng của LHQ như công ước Luật Biển (UNCLOS) 1982 nhằm đóng góp cho hòa bình, an ninh, hợp tác phát triển ở khu vực. Theo đó, Việt Nam đã tích cực thúc đẩy việc hợp tác giữa LHQ và ASEAN, trên các lĩnh vực, từ hòa bình an ninh, hợp tác phát triển, đến ứng phó với các thách thức mang tính toàn cầu như môi trường, biến đổi khí hậu, dịch bệnh.
Về Biển Đông, Việt Nam luôn nhấn mạnh việc tôn trọng luật pháp quốc tế và UNCLOS, nhằm bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia ven biển, giải quyết hòa bình các tranh chấp và không làm phức tạp thêm tình hình. Đây cũng là quan điểm và nguyên tắc chung của ASEAN.
Kết hợp hài hòa lợi ích quốc gia và trách nhiệm quốc tế
Thứ sáu, nhìn lại 45 năm, có thể thấy, Việt Nam đã luôn kết hợp hài hòa giữa bảo đảm lợi ích quốc gia với việc đóng góp một cách tích cực và trách nhiệm vào các công việc chung của LHQ. Đó là một bộ phận trong chính sách đối ngoại nhất quán của Việt Nam về độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Đó là bài học trong quá trình tham gia LHQ, cũng như hội nhập quốc tế và khu vực của Việt Nam.
Theo đó, chúng ta vừa kết hợp giữa độc lập, tự chủ, tự cường với tranh thủ sự ủng hộ, nguồn lực từ bên ngoài, cùng với đóng góp vào công việc chung với tinh thần không chỉ chủ động, tích cực, mà còn có trách nhiệm cao. Điều này đã góp phần tăng cường uy tín, tạo nên vị thế mới cho Việt Nam, được bạn bè quốc tế tin cậy và đánh giá cao.
.jpg)
Việt Nam tham gia tích cực và có trách nhiệm trong các hoạt động của LHQ. (Nguồn: TTXVN)
Tại LHQ, Việt Nam đã tham gia đóng góp vào công việc chung với tinh thần trách nhiệm cao; tham gia hoạch định những chương trình nghị sự quốc tế dựa trên không chỉ lợi ích quốc gia mà còn với những nguyên tắc của luật pháp quốc tế để tạo ra sân chơi bình đẳng giữa nước lớn, nước nhỏ, vì hòa bình, an ninh và phát triển dựa trên luật pháp quốc tế.
Thứ bảy, trong thời gian tới, với điều kiện và vị thế mới, Việt Nam càng phải phát huy hơn nữa sự tham gia và đóng góp của mình tại LHQ và trên bình diện quốc tế. Theo đó, chúng ta càng cần tiếp tục phát huy các nguyên tắc đối ngoại nêu trên, để vừa phục vụ cho khát vọng phát triển của Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045, trong khi tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa vai trò chủ động trong các công việc chung của thế giới, vì hòa bình, an ninh, hợp tác phát triển và xử lý các thách thức toàn cầu.
Việt Nam cần tiếp tục đề cao vai trò của LHQ, đa phương, hợp tác quốc tế và việc thượng tôn pháp luật quốc tế; cũng như chủ động đóng góp xây dựng các chương trình nghị sự của thế giới, các nguyên tắc quốc tế, khung hợp tác với các quốc gia, trong khuôn khổ LHQ và thông qua các cơ chế khu vực. Điều này sẽ giúp Việt Nam có đóng góp thực chất và hiệu quả trong hợp tác quốc tế, bảo đảm luật pháp quốc tế, từ đó đóng góp vào việc định hình các quy định và luật chơi của quốc tế và LHQ.
Đối ngoại tiên phong
Cuối cùng, như Đại hội XIII của Đảng nêu rõ, nhiệm vụ trọng tâm của đối ngoại Việt Nam là đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi; trong đó chỉ rõ vai trò tiên phong của đối ngoại “trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”.
Để hoàn thành được trọng trách đó, chúng ta phải kết hợp được nền ngoại giao toàn diện, hiện đại trên tất cả các kênh: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân. Cùng với đó, tiếp tục tham gia hội nhập sâu rộng và toàn diện trên các lĩnh vực, trong đó chú ý tới các lĩnh vực Việt Nam có lợi ích và khả năng tham gia. Từ đó, vừa tranh thủ cho môi trường quốc tế thuận lợi cho hòa bình, an ninh và phát triển của Việt Nam, vừa phát huy sự đóng góp vào xây dựng các chương trình nghị sự và các lĩnh vực hợp tác chung của quốc tế và khu vực.
Để mối quan hệ của Việt Nam đi sâu, thực chất với các nước, đem lại hiệu quả phục vụ công cuộc phát triển đất nước, cần bám sát chủ trương đối ngoại của Đảng tại Đại hội XIII. Đồng thời, hướng tới mục tiêu là hội nhập ở chất lượng cao hơn nhằm phục vụ tốt hơn cho mục tiêu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới, đặc biệt là tranh thủ chất xám khoa học công nghệ, các chuỗi cung ứng và phân công lao động chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế.
Phát triển quan hệ của Việt Nam với thế giới, Việt Nam cũng tiếp tục phát triển các khuôn khổ hợp tác hiện nay, thành những khuôn khổ hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế ngày càng ổn định, lâu dài, đi vào thực chất, hiệu quả, cùng có lợi. Để làm được điều này, cần phối hợp tốt hơn nữa các kênh đối ngoại ở tất cả các lĩnh vực. Không chỉ Bộ Ngoại giao, mà tất cả các bộ, ngành đều phải tham gia vào quá trình này.
Cùng với đó, công tác dự báo chiến lược và công tác cán bộ là hai việc hết sức quan trọng. Trong bối cảnh thế giới đang chuyển động sâu rộng và phức tạp, thách thức và cơ hội đan xen, càng đòi hỏi phải nâng cao chất lượng của dự báo, để có thể làm tốt việc tham mưu và kiến nghị các đối sách, cũng như trong xử lý thách thức nhưng không bỏ lỡ cơ hội. Đội ngũ cán bộ cũng cần được nâng tầm cả về tri thức, bản lĩnh, chiến lược, cũng như về các kỹ năng đối ngoại và cập nhật về công nghệ./.
*Bài viết đăng trên Baoquocte.vn. CSSD đăng lại với sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Phạm Quang Vinh.
Xem thêm
|
Năm 2021- Dấu ấn 100 năm Đảng Cộng sản Trung Quốc và "nghị quyết lịch sử thứ ba" VTV.vn - Năm 2021 sắp đi qua, cùng nhìn lại sự kiện Trung Quốc kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản, với những dấu ấn của quá khứ và những hàm ý trong tương lai.
Năm 2021 đánh dấu một cột mốc hết sức quan trọng đối với Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc tròn 100 năm tuổi.
"Thời đại mới" và "Giấc mơ Trung Quốc"
Theo cách phân tích của Đảng Cộng sản Trung Quốc, lịch sử Trung Quốc từ thời cận đại có thể chia thành bốn giai đoạn khác nhau. Kể từ khi chủ nghĩa đế quốc phương Tây đô hộ từ giữa thế kỷ XIX, xã hội Trung Quốc trở thành xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến, đất nước lâm vào thời kỳ đen tối nhất mà người Trung Quốc gọi là "trăm năm ô nhục", là "thế kỷ nhục nhã" của dân tộc Trung Hoa. Năm 1949, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ mới do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo thành công, lập nên nước CHND Trung Hoa, Trung Quốc bước vào "thời đại đứng lên". Từ khi thực hiện công cuộc cải cách mở cửa bắt đầu từ năm 1978, kinh tế phát triển với tốc độ phi mã, thành tựu rực rỡ, đất nước thay đổi một cách đáng kinh ngạc. Đó là "thời đại giàu lên". Tổng Bí thư Tập Cận Bình cho rằng, giờ đây Trung Quốc đã bước vào thời đại mới – "thời đại mạnh lên".
Một dân tộc có 5 ngàn năm lịch sử với bao nhiêu cống hiến cho nhân loại trong quá khứ bỗng nhiên bị đế quốc phương Tây chèn ép, bắt nạt, đẩy vào cảnh ngộ lầm than, ô nhục, dân tộc này đã nuôi một ý chí phục hưng từ đó. Đó chính là "Giấc mơ Trung Quốc", là khát vọng tìm lại sự vĩ đại trong quá khứ của dân tộc Trung Hoa, giấc mơ đó đã ăn sâu vào lòng người Trung Quốc. Nhưng hàng trăm năm nay giấc mơ vẫn chưa thành hiện thực. Giờ đây, khi nhìn lại lịch sử 100 năm của Đảng, Tổng Bí thư Tập Cận Bình khẳng định chắc chắn rằng: "Ngày nay, chúng ta đang ở gần hơn, có lòng tin và năng lực hơn để thực hiện mục tiêu phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa so với bất kỳ thời kỳ nào trong lịch sử".
Năm 2021 cũng là năm Trung Quốc tuyên bố hoàn thành "mục tiêu 100 năm" thứ nhất, xây dựng thành công toàn diện xã hội khá giả, bước vào tiến trình mới thực hiện "mục tiêu 100 năm" thứ hai từ nay đến giữa thế kỷ, đó là hiện thực hóa "Giấc mơ Trung Quốc".
Hội nghị Trung ương lần thứ 6
Ngoài lễ kỷ niệm long trọng được tổ chức đúng ngày 01 tháng 7, ngày thành lập Đảng cách đây 100 năm, tháng 11 vừa qua đã diễn ra Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 khóa XIX. Đây không chỉ là một sự kiện chính trị có ý nghĩa đặc biệt của năm 2021 mà còn là sự kiện đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Theo thông báo chính thức, Hội nghị này đã xem xét và thông qua "Nghị quyết về triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX của Đảng" vào nửa cuối năm 2022. Nhưng sự kiện đáng được quan tâm nhất đối với nhân dân trong nước và dư luận quốc tế là Hội nghị đã xem xét và thông qua Nghị quyết "Về những thành tựu quan trọng và kinh nghiệm lịch sử trong 100 năm phấn đấu của Đảng", còn gọi là "Nghị quyết lịch sử thứ ba".
Tại sao lại là "Nghị quyết lịch sử thứ ba"? Trong 100 năm qua, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từng đưa ra hai "Nghị quyết lịch sử", những nghị quyết này nhằm nhìn lại một một chặng đường đã đi, tổng kết chỗ đúng, chỗ sai, đúc rút bài học kinh nghiệm cho chặng đường tiếp theo. Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc vô cùng phức tạp, không biết bao nhiêu thăng trầm của Đảng dẫn đến những biến động dữ dội của đất nước đông dân nhất thế giới này. Bởi vậy việc tổng kết từng giai đoạn lịch sử, khẳng định đúng-sai thật không hề đơn giản.
Nhìn lại những "Nghị quyết lịch sử" trong quá khứ
"Nghị quyết lịch sử thứ nhất" ra đời năm 1945, khi Đảng chưa cầm quyền. Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa VI diễn ra tại căn cứ địa cách mạng Diên An kéo dài từ tháng 5 năm 1944 đến tháng 4 năm 1945 với nhiều nội dung quan trọng. Một cuộc Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng kéo dài gần một năm trời đã cho thấy rõ ràng đây là một cuộc chỉnh đốn Đảng, một cuộc đấu tranh nội bộ hết sức gay gắt. Hội nghị nhìn lại quá trình cách mạng kể từ khi thành lập Đảng năm 1921 đến thời điểm lúc bấy giờ (năm 1945), nhưng chủ yếu tập trung phân tích diễn biến tình hình từ Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (năm 1931) đến trước Hội nghị Tuân Nghĩa (năm 1935). Đó là lúc Đảng Cộng sản và Hồng quân lâm vào nguy cơ bị diệt vong, những sai lầm "tả khuynh" trong Đảng gây tổn thất to lớn cho cách mạng Trung Quốc, đồng thời tạo thành cuộc khủng hoảng nội bộ Đảng. Cuối cùng Trung ương Đảng quyết định thực hiện cuộc rút lui chiến lược đầy gian khổ để bảo toàn lực lượng – cuộc "Vạn lý trường chinh" trên chặng đường hiểm trở dài 12.000 km.
Thành quả quan trọng của Hội nghị Trung ương 7 khóa VI là thông qua "Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử", trong đó phân tích những sai lầm nghiêm trọng của "chủ nghĩa tả khuynh mạo hiểm" mà đại diện là Ủy viên Bộ Chính trị Vương Minh, đồng thời đánh giá cao những cống hiến của Mao Trạch Đông. Ngay sau khi Hội nghị kết thúc vài ngày là Đại hội Đảng lần thứ VII, xác lập "Tư tưởng Mao Trạch Đông" là tư tưởng chỉ đạo của Đảng.
"Nghị quyết lịch sử thứ hai" ra đời năm 1981, khi công cuộc cải cách mở cửa vừa mới bắt đầu. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XI thảo luận và thông qua "Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử kể từ khi thành lập nước", nhìn lại quãng thời gian 30 năm từ khi nước CHND Trung Hoa ra đời (năm 1949) đến giai đoạn đầu cải cách mở cửa. Nghị quyết đã chỉ ra một số sai lầm làm cho đất nước lâm vào khó khăn, phân biệt rạch ròi sự đúng đắn của "Tư tương Mao Trạch Đông" với những sai lầm 20 năm cuối đời của cá nhân Mao Trạch Đông, kết luận công-tội rõ ràng. Đặc biệt Nghị quyết đã phân tích nguyên nhân và rút ra những bài học từ những sai lầm của Đảng do Mao Trạch Đông làm hạt nhân như, xác định sai mâu thuẫn chủ yếu trong nước, có tư tưởng duy ý chí, nóng vội, quyền lực quá tập trung vào tay cá nhân, tệ sùng bái cá nhân v.v... dẫn đến những sai lầm lớn như "đại nhảy vọt" (1958-1960) và tai họa nhất là 10 năm "Đại cách mạng văn hóa vô sản" (1966-1976). Nghị quyết đã làm thay đổi một cách cơ bản tư duy trong toàn Đảng, từ đó xóa bỏ tư tưởng duy ý chí và phương châm "hai phàm là" để nhìn thẳng vào thực tiễn, vững tin bước vào công cuộc cải cách mở cửa.
"Nghị quyết lịch sử thứ ba"
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XIX lần này được gọi là "Nghị quyết lịch sử thứ ba" vì nó ra đời vào thời điểm lịch sử khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tròn 100 năm tuổi. Nội dung Nghị quyết gồm 7 phần chính: (1) Giành thắng lợi vĩ đại cuộc cách mạng dân chủ mới; (2) Hoàn thành cách mạng XHCN và thúc đẩy xây dựng CNXH; (3) Tiến hành cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa XHCN; (4) Mở ra thời đại mới XHCN đặc sắc Trung Quốc; (5) Ý nghĩa lịch sử 100 năm phấn đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc; (6) Kinh nghiệm lịch sử 100 năm phấn đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc; (7) Đảng Cộng sản Trung Quốc thời đại mới.
Nhìn tổng thể, Nghị quyết này có ba đặc điểm khác với hai "Nghị quyết lịch sử" trước đó. Trước hết, khoảng thời gian của Nghị quyết này xuyên suốt 100 năm lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong khi hai nghị quyết trước đó chỉ giới hạn trong một khoảng thời gian cụ thể sau khi Đảng được thành lập. Thứ hai, lần này không đi sâu phân tích những sai lầm quá khứ. Tổng Bí thư Tập Cận Bình cho rằng: "Hai nghị quyết trước cơ bản đã giải quyết những vấn đề đúng sai quan trọng trong lịch sử của Đảng kể từ khi thành lập đến thời kỳ đầu cải cách mở cửa, những lập luận và kết luận cơ bản đến nay vẫn còn nguyên giá trị". Bởi vậy Nghị quyết lần này tập trung tổng kết những thành tựu quan trọng và những kinh nghiệm lịch sử 100 năm qua của Đảng. Thứ ba, Nghị quyết này nêu bật trọng điểm "thời đại mới" của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. "Thời đại mới" là khái niệm được định danh từ Đại hội XIX của Đảng năm 2017 trên cơ sở xác định thành tựu của 40 năm cải cách mở cửa. Có thể hiểu rằng, nêu bật trọng điểm thời đại mới có nghĩa là tập trung phân tích tương lai nhiều hơn.
Nghị quyết nhấn mạnh "hai xác lập" quan trọng. Đó là xác lập đồng chí Tập Cận Bình giữ vai trò hạt nhân trong Trung ương Đảng và vai trò hạt nhân trong toàn Đảng; xác lập vai trò chỉ đạo của Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.
So sánh bối cảnh ra đời cả 3 "Nghị quyết lịch sử" có thể thấy rằng, "Nghị quyết lịch sử thứ nhất" xác lập địa vị tối cao của Chủ tịch Mao Trạch Đông trong giai đoạn cách mạng dân chủ mới để đi đến thắng lợi bằng sự ra đời của nước CHND Trung Hoa; "Nghị quyết lịch sử thứ hai" xác lập địa vị tối cao của Đặng Tiểu Bình trong giai đoạn cải cách mở cửa để đi đến thắng lợi vĩ đại đưa đất nước giàu lên nhanh chóng; "Nghị quyết lịch sử thứ ba" xác lập vai trò "hạt nhân" của Tổng Bí thư Tập Cận Bình và vai trò chỉ đạo của Tư tưởng Tập Cận Bình trong tiến trình thực hiện "giấc mơ phục hưng dân tộc Trung Hoa" từ nay đến giữa thế kỷ. Dư luận cho rằng, mặc dù Nghị quyết tập trung vào những thành tựu quan trọng và kinh nghiệm lịch sử trong 100 năm phấn đấu của Đảng, nhưng nổi bật nhất vẫn là vấn đề vai trò hạt nhân trong Đảng của Tổng Bí thư Tập Cận Bình.
Phát biểu tại cuộc họp báo về Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XIX, ông Giang Kim Quyền, Chủ nhiệm Văn phòng Nghiên cứu chính sách Trung ương Đảng nhấn mạnh: "Việc giữ vững và bảo vệ vị trí hạt nhân của Tổng Bí thư Tập Cận Bình là để đảm bảo Đảng có người ra quyết định quan trọng, nhân dân có chỗ dựa và con tàu phục hưng dân tộc có người cầm lái". Ông còn nhắc lại lời của Đặng Tiểu Bình trước đây rằng: "Bất kỳ một tập thể lãnh đạo nào cũng cần có một hạt nhân, không có lãnh đạo hạt nhân thì đứng không vững". Ông nói thêm: "Vậy 95 triệu đảng viên, 56 dân tộc, 1,4 tỷ người nếu như không có hạt nhân của Trung ương, hạt nhân toàn Đảng thì không thể tưởng tượng được, rất dễ đổ vỡ, làm gì cũng không thành".
Có lẽ cũng vì như vậy mà toàn văn Nghị quyết dài hơn 36 ngàn chữ, tổng kết 100 năm phấn đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã dành đến hơn một nửa, tức hơn 18 ngàn chữ nói về những thành tựu quan trọng 9 năm qua từ Đại hội XVIII (năm 2012) khi Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí thư đến nay. Những thành tựu đó được thể hiện trên 13 lĩnh vực, cụ thể như: về việc kiên trì sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; về quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện; về xây dựng kinh tế; về đi sâu cải cách mở cửa toàn diện; về xây dựng chính trị; về quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện; về xây dựng văn hoá; về xây dựng xã hội; về xây dựng văn minh sinh thái; về xây dựng quốc phòng và quân đội; về bảo vệ an ninh quốc gia; về kiên trì "một nước hai chế độ" và thúc đẩy thống nhất Tổ quốc và về công tác ngoại giao.
Một nội dung có ý nghĩa lịch sử khác là Nghị quyết đã đúc kết 10 kinh nghiệm lịch sử trong suốt 100 năm qua của Đảng Cộng sản Trung Quốc, còn gọi là "10 kiên trì": (1) Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng; (2) Kiên trì nhân dân trên hết; (3) Kiên trì sáng tạo lý luận; (4) Kiên trì độc lập tự chủ; (5) Kiên trì con đường Trung Quốc; (6) Kiên trì rộng lòng với thiên hạ; (7) Kiên trì mở mang sáng tạo; (8) Kiên trì dám đấu tranh; (9) Kiên trì mặt trận thống nhất; (10) Kiên trì tự cách mạng bản thân.
Như vậy nghị quyết đã trả lời câu hỏi mà Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã đặt ra trong bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 01 tháng 7 năm nay, đó là "từ 100 năm phấn đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhìn rõ tại sao chúng ta đã thành công trong quá khứ và làm thế nào để tiếp tục thành công trong tương lai"’.
Qua những kết luận của Hội nghị Trung ương lần này được thể hiện trong Nghị quyết, có thể nhận biết được vai trò "cầm lái" của Tổng Bí thư Tập Cận Bình trong lộ trình phía trước của Trung Quốc. Không cần suy luận nhiều người ta cũng có thể thấy Đại hội XX sắp tới, ông sẽ tiếp tục giữ vai trò hạt nhân ít nhất một nhiệm kỳ nữa. Thậm chí giới phân tích cho rằng, với việc xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ Chủ tịch nước trong Hiến pháp Trung Quốc năm 2018 và chủ trương "hai xác lập" tại Nghị quyết lần này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã mở lại con đường "lãnh đạo suốt đời" cho nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước./.
* Bài viết đăng trên Báo điện tử VTV, CSSD xin đăng lại với sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang.
Xem thêm
|
Kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc: cuộc chiến thoát nghèo là một kỳ tích Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1/7/1921-1/7/2021), Cố vấn cao cấp CSSD, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị VIệt Nam - Trung Quốc, Nguyễn Vinh Quang có bài viết về những thành tựu cơ bản của Trung Quốc, đồng thời, chúc mừng về những thành tựu mà Đảng và Nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong 100 năm qua. Bài viết đăng trên Tạp chí Thời đại; được sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang, CSSD xin đăng lại toàn văn bài viết.
Nhìn lại xã hội Việt Nam và xã hội Trung Quốc 100 năm trước, chúng ta không thể tưởng tượng được có ngày hôm nay. Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, Trung Quốc là xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến, người dân chịu nhiều tầng áp bức, bóc lột.
Ngày nay, nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc đã làm chủ đất nước mình. Cả hai quốc gia đều đang phát triển với tốc độ cao hàng đầu trên thế giới. Trung Quốc đã có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới; Việt Nam là quốc gia phát triển nhanh trong khu vực. Sự thay đổi kỳ diệu 100 năm qua không thể phủ nhận tính ưu việt của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản hai nước.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền, thành lập nước CHND Trung Hoa đến nay, dù phải trải qua bao cơn sóng gió, bao nhiêu chặng đường khúc khuỷu, gập ghềnh, Đảng vẫn kiên trì vai trò lãnh đạo của mình. Đặc biệt, từ khi bắt đầu cuộc cách mạng cải cách mở cửa đến nay đã hơn 40 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc đã làm nên kỳ tích có ý nghĩa lịch sử. Những thay đổi long trời lở đất của đất nước Trung Quốc, cả thế giới đều chứng kiến.
.jpg)
Đoàn đại biểu Hội Hữu nghị Việt Nam –Trung Quốc thăm nơi nơi Bác Hồ từng làm việc tại Liễu Châu năm 2019.
Năm nay, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng là năm tổng kết thực hiện mục tiêu 100 năm thứ nhất mà Đảng đề ra: Xây dựng thành công toàn diện xã hội khá giả. Đầu năm 2021, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình tuyên bố cuộc chiến thoát nghèo của Trung Quốc đã thắng lợi hoàn toàn. Đây là một kỳ tích. Khi nước CHND Trung Hoa thành lập 72 năm trước, lúc đó, đất nước này có số người nghèo đông nhất thế giới. Đến nay, tuyên bố khẳng định, toàn bộ người nghèo ở nông thôn Trung Quốc đã thoát nghèo theo tiêu chuẩn hiện hành của Liên hợp quốc. Như vậy trong 40 năm cải cách mở cửa, 770 triệu người Trung Quốc đã thoát nghèo, chiếm đến 70% số người được thoát nghèo trên thế giới. Đặc biệt những năm gần đây cuộc chiến thoát nghèo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc do đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân được đẩy nhanh chưa từng có. Không có một quốc gia nào trên thế giới có thể xóa nghèo cho gần 100 triệu dân chỉ trong khoảng thời gian 8 năm.
Tôi cho rằng đây là thành tựu cơ bản nhất và có ý nghĩa lịch sử quan trọng nhất trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội khá giả của Trung Quốc. Đảng Cộng sản đã thực hiện thành công lời hứa với nhân dân, làm tăng uy tín của Đảng trong lòng dân.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc đã kết thúc thắng lợi một giai đoạn lịch sử trọng đại, tạo cơ sở để mở đầu cho giai đoạn mới trong tiến trình đi đến mục tiêu trở thành cường quốc hiện đại hóa XHCN giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp.
Những người cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã có quan hệ mật thiết với nhau suốt 100 năm nay. Hai Đảng Cộng sản đã cùng hợp tác và giúp đỡ nhau trong cách mạng dân tộc, dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi nước. Quan hệ hai nước Việt-Trung dù đã trải qua nhiều sóng gió vẫn giữ được hướng đi đúng đắn. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và cải cách mở cửa, hai Đảng vẫn duy trì hợp tác, trao đổi kinh nghiệm lý luận và thực tiễn, thúc đẩy hợp tác toàn diện vì lợi ích của nhân dân hai nước.
.jpg)
Ông Nguyễn Vinh Quang, Trưởng đoàn đại biểu Hội Hữu nghị Việt Nam –Trung Quốc ghi lưu niệm tại Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Liễu Châu.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, là một người nhiều năm nghiên cứu tình hình Trung Quốc và từng tham gia xây dựng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước, nay là Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt-Trung, tôi cảm thấy vui mừng và chân thành chúc mừng về những thành tựu mà Đảng và nhân dân Trung Quốc đã đạt được 100 năm qua. Chúc Đảng Cộng sản Trung Quốc giành nhiều thắng lợi ngày càng to lớn trong tiến trình mới, vì hạnh phúc của nhân dân Trung Quốc, vì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới. Chúc quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng củng cố và phát triển./.
Xem thêm
|
Bác Hồ tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam
QĐND - Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Việt Nam là cuộc cách mạng vĩ đại của thế kỷ 20. Thắng lợi của dân tộc Việt Nam không thể tách rời sự ủng hộ to lớn và hiệu quả của bạn bè trên thế giới. Nhịp cầu quan trọng nhất kết nối giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, với phong trào cộng sản công nhân quốc tế, với nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới chính là Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Người đã gắn kết sự nghiệp cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kết hợp một cách tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bởi vậy, Người đã tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế dưới nhiều hình thức phong phú và hiệu quả.
1. Nắm rõ tình hình quốc tế, tìm đến sự đồng cảm của nhân dân thế giới
Năm 1911, khi rời đất nước ra đi, chàng trai Nguyễn Tất Thành chỉ mới biết được nỗi khổ của người dân Việt Nam, biết được sự bất công trong một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nhưng chưa biết thế giới bên ngoài đang tồn tại như thế nào. Anh phải đến thẳng nước Pháp, nước Anh, vào trong sào huyệt của chủ nghĩa thực dân để tìm hiểu và so sánh với thực tiễn xã hội Việt Nam. Anh đã nhận thức đối tượng của cách mạng thế giới là chủ nghĩa thực dân đế quốc nói chung, không phân biệt màu da. Vì ở bất cứ đâu, chủ nghĩa đế quốc cũng tàn bạo, bất công và độc ác. Nhân dân lao động ở các nước thuộc địa hay phụ thuộc và ngay cả ở các chính quốc đều bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, bóc lột. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng thế giới. Từ nhận thức trên, Người rút ra kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật thôi: Tình hữu ái vô sản”(1). Chính “tình hữu ái vô sản” mà Người phát hiện ra đó đã được Người và nhiều nhà cách mạng vô sản khác trên thế giới làm sống dậy, mang đến sức mạnh cho phong trào cách mạng các nước, trong đó có Việt Nam sau này.
Nhiều bài báo, nhiều buổi diễn thuyết của Người tại các cuộc biểu tình hay các diễn đàn quốc tế đã chuyển đến những người cùng cảnh ngộ trên thế giới về nỗi thống khổ và tình cảm của những người Việt Nam đang bị áp bức, và ngược lại, giành được sự đồng cảm của đông đảo nhân dân tiến bộ trên thế giới. Trong kháng chiến, dù coi Pháp, Mỹ là kẻ thù, là đối tượng của cuộc kháng chiến, Người vẫn luôn nhắc nhở nhân dân ta phân biệt rõ ràng đế quốc thực dân xâm lược với nhân dân lao động, coi nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ như là đồng minh tự nhiên, không chút hận thù và còn đặt lòng tin vào sự thức tỉnh lương tri của họ.
Giữa năm 1964, Người đã tuyên bố rõ quan điểm của Việt Nam về nước Mỹ: “Chúng tôi phân biệt nhân dân Mỹ với đế quốc Mỹ”; “Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ mà chúng tôi rất kính trọng”(2). Người tin rằng mỗi khi “lương tâm người Mỹ nổi giận” sẽ góp phần thay đổi cục diện cuộc chiến tranh: “Nhân dân Mỹ đánh từ trong đánh ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ, thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân Việt-Mỹ nhất định sẽ thắng”(3).
Đối với các quốc gia đồng minh, bè bạn gần gũi, không những Người đã thúc đẩy sự ủng hộ và hợp tác của chính quyền mà còn tranh thủ được tình cảm trong lòng dân. Là một người từng công tác tại Trung Quốc gần chục năm, một trong những điều tôi cảm nhận sâu sắc nhất là người dân Trung Quốc có thể có những quan điểm khác nhau về đất nước, con người Việt Nam, nhưng hình ảnh Bác Hồ trong lòng họ gần như không khác nhau. Trên đất nước Trung Quốc rộng lớn hiện có khoảng hơn 70 di tích liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và rất nhiều trong số đó không chỉ được Trung Quốc bảo tồn, giữ gìn nguyên vẹn mà từng ngày, từng giờ được giới thiệu với đông đảo công chúng, khách tham quan trong nước và quốc tế về những giá trị lịch sử-văn hóa mang dấu ấn Hồ Chí Minh.

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp, ủng hộ Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Ảnh: hochiminh.vn.
2. Tranh thủ sự ủng hộ của các chính khách, các quốc gia có thực lực và các tổ chức quốc tế
Trước tiên phải nói đến bản “Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam” mà Người đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước, ký tên Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Versailles tháng 6-1919. Người biết rằng đây là cuộc gặp giữa nguyên thủ các đế quốc thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, là những nhân vật có thế lực, có tiếng nói quyết định đối với trật tự thế giới. Đặc biệt trong đó có Tổng thống Mỹ, bấy giờ là Woodrow Wilson, người trước đó vừa công bố chương trình 14 điểm, trong đó đáng quan tâm là điểm thứ 5: “Điều chỉnh một cách tự do, công bằng quyền yêu sách của các thuộc địa, đặt mối quan tâm tới quyền lợi của những người dân bị tác động ngang hàng với lợi ích của các chính phủ liên quan tới yêu sách”. Người trực tiếp gặp Tổng thống Wilson để đưa đơn thỉnh nguyện và hy vọng đây là cơ hội cho nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các quốc gia thuộc địa. Tuy bản yêu sách không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa.
Sau khi giành chính quyền, Người vẫn luôn quan tâm đến việc tranh thủ các nhân vật quyền lực của các cường quốc, kể cả các quốc gia phía bên kia chiến tuyến. Vô số ví dụ về những yêu cầu đầy tính thuyết phục của Người. Những năm 1945-1946, Người đã nhiều lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ, với lời lẽ ngoại giao, hoan nghênh tuyên bố của Tổng thống Mỹ, nhất là những điểm liên quan trực tiếp tới quyền độc lập của các dân tộc “nhược tiểu”, đồng thời yêu cầu nước Mỹ thực hiện tuyên bố đó.
Tháng 10-1945, chính quyền của Tổng thống Truman ra tuyên bố chính sách đối ngoại 12 điểm của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó nêu rõ Mỹ sẽ “không phản đối và cũng không giúp Pháp tái lập sự kiểm soát ở Đông Dương”. Nhận thức rõ vai trò to lớn của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương lúc bấy giờ, Người coi đây là cơ hội để tiếp cận với Mỹ nhằm khai thác những điểm tích cực trong tuyên bố đó. Ngày 12-10-1945, với tư cách người đứng đầu Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Người đã gửi cho Tổng thống Mỹ Truman bức thư bày tỏ sự hoan nghênh đối với chính sách đối ngoại của Mỹ nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ và các nước cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Bức thư đến Văn phòng Tổng thống Mỹ ngày 2-11-1945. Cùng ngày, tại Hà Nội, trong cuộc gặp gỡ các nhà báo nước ngoài, trả lời những câu hỏi về quan điểm của Chính phủ Việt Nam đối với chính sách đối ngoại của Mỹ, Người nêu rõ, nhân dân Việt Nam hoan nghênh, ủng hộ tuyên bố 12 điểm của Tổng thống Truman và tin tưởng rằng nước Mỹ sẽ sớm thực hiện chúng.
Cũng trong thời gian này, Người đã có công hàm gửi Chính phủ các nước: Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô và Vương quốc Anh, đề nghị ngăn chặn việc quân đội Pháp xâm lược miền Nam Việt Nam, đưa vấn đề Đông Dương ra Liên hợp quốc, trao trả độc lập cho các nước Đông Dương.
3. Muốn người khác giúp đỡ, mình phải có sức mạnh bên trong
Đó là quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã chỉ ra rằng: “Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ ở nơi lực lượng của Việt Nam”; “Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã”. Trong khi định ra đường lối quốc tế và sách lược tập hợp lực lượng bên ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh nhân tố bên trong, coi nhân tố bên trong là nhân tố quyết định. Người nhắc nhở: “Ta có mạnh thì họ mới “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”(4).
Vào thời điểm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người đã nêu ra chủ trương đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ đồng tình của quốc tế: Cần phải “dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ”. Rõ ràng, đối tượng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chống Mỹ rất rộng rãi, nhưng Người vẫn luôn nhấn mạnh dựa vào sức mình là chính. Sức hậu thuẫn thế giới thường được tăng cường và phát triển tỷ lệ thuận với những thắng lợi của nhân dân ta là một minh chứng quan điểm mở rộng đoàn kết quốc tế trên cơ sở tự lập, tự cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4. Sử dụng nghệ thuật “ngoại giao tâm công” để thu phục lòng người
“Ngoại giao tâm công” là một trong những đặc trưng nổi bật của ngoại giao truyền thống Việt Nam, được Bác Hồ kế thừa và phát triển một cách hết sức khéo léo, hiệu quả. “Ngoại giao tâm công” dựa trên cơ sở chủ nghĩa nhân văn, tìm ra những điểm tương đồng để thức tỉnh và khích lệ sự ủng hộ quốc tế, phân biệt rõ bạn-thù, phân biệt dân tộc với kẻ phản động trong Chính phủ để cô lập kẻ thù gây chiến nhằm tập hợp lực lượng rộng rãi trên thế giới. “Ngoại giao tâm công” vừa được sử dụng đối với kẻ thù, vừa được sử dụng với bạn bè. Người rất thành công trong nghệ thuật ngoại giao này là nhờ sự am hiểu sâu rộng đặc tính văn hóa của các dân tộc trên thế giới và tìm thấy những điểm tương đồng trong quan niệm giá trị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác. Trong quan hệ với Pháp, Người khơi dậy lòng tự hào của nhân dân Pháp để nhân dân Pháp phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chính người Pháp đã thừa nhận: Hồ Chí Minh đã đánh chìm chủ nghĩa thực dân Pháp mà vẫn giữ được tình hữu nghị với nhân dân Pháp.
Trong thư gửi tướng Leclerc-người được cử sang điều tra tình hình Việt Nam đầu năm 1947, Người viết: “Ngài là một đại quan nhân và một nhà ái quốc... Một nhà ái quốc trọng những người ái quốc khác. Một người yêu quê hương mình, trọng quê hương kẻ khác... Giá thử ngài đánh được chúng tôi đi chăng nữa-đấy là một điều viển vông, vì nếu ngài mạnh về vật chất thì chúng tôi đây, mạnh về tinh thần, với một ý chí cương quyết chiến đấu cho tự do của chúng tôi-thì những thắng lợi tạm thời kia chẳng những không tăng thêm mà lại còn làm tổn hại đến uy danh quân nhân và tư cách ái quốc của ngài”(5).
Với nhân dân Mỹ, trong “Điện gửi các bạn người Mỹ nhân dịp năm mới 1968”, Người nêu rõ: “Các bạn đều biết, không hề có người Việt Nam nào đến khuấy rối ở nước Mỹ. Vậy mà có nửa triệu quân Mỹ đến miền Nam Việt Nam, cùng với hơn 70 vạn quân ngụy và quân chư hầu, hằng ngày bắn giết người Việt Nam, đốt phá thành phố và xóm làng Việt Nam... Hàng chục vạn thanh niên Mỹ phải chết và bị thương vô ích trên chiến trường Việt Nam. Chính phủ Mỹ xài phí về chiến tranh ở Việt Nam mỗi năm hàng chục tỷ đô-la tiền mồ hôi, nước mắt của nhân dân Mỹ... Các bạn ra sức đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ phải chấm dứt xâm lược Việt Nam, vừa bảo vệ chính nghĩa, vừa ủng hộ chúng tôi”(6).
Những lời nói đó đã chạm vào trái tim của những con người lương thiện, yêu chuộng hòa bình, biến lương tri của họ thành sức mạnh chống chiến tranh, ủng hộ chính nghĩa của Việt Nam.
Đội ngũ cán bộ ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh cần tiếp tục nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta để kế thừa và phát triển, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, bảo vệ lợi ích chính đáng của Việt Nam trong thời đại mới.
-------
(1) "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc và con người" (Phạm Hồng Chương)
(2) Trả lời phỏng vấn nhà báo Burchett, ngày 25-4-1964 (Báo Nhân Dân, ngày 25-4-1964)
(3) "Chủ tịch Hồ Chí Minh-trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại" (Nguyễn Phúc Luân)
(4) "Chủ tịch Hồ Chí Minh-trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại" (Nguyễn Phúc Luân)
(5) "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 5, tr.5
(6) Báo Nhân Dân, ngày 31-12-1967
NGUYỄN VINH QUANG, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Phát triển quan hệ quốc tế, nguyên Vụ trưởng, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng
Bài viết đăng trên Báo điện tử Quân đội Nhân dân. Được sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang, CSSD xin đăng lại.
Xem thêm
|
NHỮNG TÍN HIỆU TỪ ĐẠI HỘI LẦN THỨ VIII ĐẢNG LAO ĐỘNG TRIỀU TIÊN Nguyễn Vinh Quang [1]
Đại hội lần thứ VIII Đảng Lao động Triều Tiên tiến hành từ ngày 5 đến ngày 11/1/2021 tại Thủ đô Bình Nhưỡng với sự tham gia của 5.000 đại biểu, trong đó có 250 ủy viên trung ương đảng, 4.750 đại biểu các cấp và 2.000 đại biểu dự thính. Đại hội nghe báo cáo tổng kết của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII do nhà lãnh đạo Kim Jong-un, với danh nghĩa Chủ tịch Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tich Quốc vụ CHDCND Triều Tiên, Tư lệnh tối cao lực lượng vũ trang trình bày. Thời gian báo cáo kéo dài 9 tiếng.
Nhìn lại 5 năm qua một cách cầu thị
Đại hội VIII diễn ra đúng chu kỳ 5 năm sau Đại hội VII (2016). Đây là Đại hội thứ hai kể từ khi ông Kim Jong-un trở thành nhà lãnh đạo tối cao của CHDCND Triều Tiên. 5 năm qua tình hình thế giới diễn biến phức tạp và Triều Tiên phải đối mặt với muôn vàn khó khăn bởi đại dịch, thiên tai và sự bao vây cấm vận bởi lệnh trừng phạt của Liên hợp quốc và các biện pháp trừng phạt khác của Mỹ. 5 năm qua cũng là 5 năm có những biến chuyển mang tính đột phá trong quan hệ hai miền Triều Tiên và quan hệ Mỹ-Triều, đặc biệt là từ năm 2018, với mục tiêu mà cả thế giới hy vọng là phi hạt nhân hóa, dỡ bỏ trừng phạt, đi đến một bán đảo Triều Tiên hoà bình, ổn định.
Thế nhưng những nỗ lực của các bên liên quan đã chưa đem lại một kết quả cụ thể nào đáng kể. Phía Triều Tiên trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn vẫn tiến hành thành công các cuộc thử vũ khí mới. Quan hệ hai miền Triều Tiên vẫn có những lúc căng thẳng đến nghẹt thở. Các cuộc đàm phán cấp làm việc Mỹ- Triều đều thất bại. Lệnh trừng phạt vẫn không hề được nới lỏng.
Đại hội lần này của Đảng Lao động Triều Tiên đã nhìn lại những thành tựu và những bất cập 5 năm qua kể từ Đại hội VII (năm 2016). Báo cáo tổng kết cho rằng, 5 năm qua, Triều Tiên đã tiến hành cuộc đấu tranh ngoan cường biến mọi trở ngại thành thắng lợi to lớn, đánh dấu “sự mở đầu cho thời đại phát triển mới”, thời đại “Nước ta trên hết”[2]. Về kinh tế, tuy chưa đạt được mục tiêu chiến lược như dự định nhưng đã tạo dựng được cơ sở để tự lực thúc đẩy phát triển kinh tế trong tương lai. Đó là bảo vệ được cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa kiểu Triều Tiên trong điều kiện bị bao vây cấm vận và thiên tai nghiêm trọng. Về quốc phòng, đã “củng cố sức mạnh răn đe hạt nhân, phòng thủ đất nước”. Báo cáo cho rằng, “Xuất phát từ tính đặc thù của cách mạng Triều Tiên là đối phó với thế lực xâm lược xuyên thế kỷ nhằm vào Triều Tiên cũng như đặc điểm địa chính trị của đất nước, đòi hỏi phải xây dựng sức mạnh hạt nhân”. Báo cáo cũng cho biết quá trình lịch sử hoàn thành mục tiêu hiện đại hóa vũ khí hạt nhân để có được năng lực hạt nhân hoàn toàn mới. Ngoài công nghệ hạt nhân, Báo cáo đã đề cập đến những thành tựu mới tăng cường sức mạnh quân đội như đầu đạn bay siêu thanh áp dụng cho tên lửa đạn đạo, vệ tinh do thám quân sự, các dự án nghiên cứu thiết kế tàu ngầm hạt nhân mới, v.v...
Về đối ngoại, Báo cáo cho rằng thời gian qua Triều Tiên đã tích cực triển khai các hoạt động nâng cao uy tín và sự tôn nghiêm của quốc gia. “Trong tình hình xấu bị Mỹ và các thế lực theo đuôi bao vây phong tỏa nghiêm ngặt, Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên đã kiên quyết chống lại, đã chứng minh cho thế giới thấy rằng không ai có thể xâm phạm chủ quyền quốc gia” và “không tôn trọng chủ quyền thì không thể cải thiện quan hệ với Triều Tiên”. “5 năm qua Triều Tiên đã mạnh dạn đổi mới đường lối, sử dụng chiến lược mang tính tiến công, hình thành làn gió hoà bình, tạo không khí đối thoại được cộng đồng quốc tế công nhận, đồng thời linh hoạt tổ chức các hoạt động đối ngoại nâng cao địa vị quốc tế”. Báo cáo nhấn mạnh những bước cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Cu-ba, Việt Nam, từ đó tăng cường hơn sự đoàn kết ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Điều đáng chú ý là, nhà lãnh đạo Kim Jong-un đã rất thẳng thắn thừa nhận kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia 5 năm qua đã kết thúc, song nhiều mục tiêu vẫn chưa hoàn thành, cho rằng tự mình phải rút ra “bài học xương máu”. Ông đã phân tích khá kỹ tình hình xây dựng kinh tế, văn hoá, quốc phòng, quản lý xã hội, công tác đoàn thể v.v... Đặc biệt tình hình phức tạp trong nước và quốc tế khiến Triều Tiên phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng ngoài dự kiến. Ông thừa nhận một số công tác của Đảng chưa mang lại sự cải thiện, mục tiêu tăng trưởng kinh tế chưa hoàn thành, việc cải thiện dân sinh chưa có kết quả rõ rệt, đồng thời ông cũng chỉ ra một cách cụ thể những yếu kém, những bất cập tiềm ẩn trong các đơn vị, các ngành và những nguyên nhân của nó. Ông nhấn mạnh phải tìm ra nguyên nhân chủ quan, nếu bỏ qua thì sẽ trở thành những trở ngại lớn hơn.
Kế hoạch phát triển 5 năm tới
Báo cáo đã trình bày chiến lược phát triển kinh tế 5 năm tới với nhiệm vụ trọng tâm là coi công nghiệp luyện kim và công nghiệp hóa chất là then chốt để tập trung đầu tư; thực hiện bình thường hóa các ngành sản xuất kinh tế quốc dân; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành nông nghiệp; bảo đảm đầy đủ nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp nhẹ, tăng mạnh sản xuất hàng tiêu dùng đại chúng. Cốt lõi và chủ đề cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế 5 năm tới của Triều Tiên vẫn là “tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp”. Báo cáo nhấn mạnh, “Tính đến năng lực thực tế, kế hoạch 5 năm mới đã phản ánh yêu cầu hoàn thiện cơ cấu của nền kinh tế quốc gia tự lập, giảm bớt mức độ phụ thuộc nhập khẩu, ổn định cuộc sống nhân dân”. Một số chỉ tiêu cụ thể được nêu ra trong 5 năm tới như: đầu tư xây dựng 50.000 căn hộ ở Bình Nhưỡng, mỗi năm xây 10.000 căn hộ, cơ bản giải quyết vấn đề ở cho cư dân Thủ đô; xây 25.000 căn hộ cho công nhân tại các cơ sở hàng đầu sản xuất, khai thác; ngành công nghiệp vật liệu xây dựng phải hoàn thành nhiệm vụ cơ bản 8 triệu tấn xi-măng v.v...
Nhà lãnh đạo Kim Jong-un đã trình bày lập trường về quốc phòng của Triều Tiên là tiếp tục tăng cường sự đảm bảo vững chắc cơ sở sống còn của đất nước, duy trì sự tôn nghiêm, an toàn và hoà bình của đất nước và của nhân dân, cho rằng Triều Tiên đã nỗ lực và kiềm chế tối đa một cách thiện chí nhằm đảm bảo hoà bình an ninh cho bán đảo Triều Tiên và thế giới, nhưng chính sách thù địch của Mỹ không hề giảm mà còn tăng thêm. Ông nhấn mạnh: “Nhìn thấy kẻ thù ngày càng tăng cường vũ khí nhằm vào đất nước mình mà không nỗ lực tăng cường sức mạnh bản thân, bình chân như vại, thì đó là hành động vô cùng nguy hiểm và quá ngu xuẩn”.
Về vấn đề vũ khí hạt nhân, Triều Tiên đã đặt ra mục tiêu mở rộng kho vũ khí hạt nhân, nhưng tuyên bố “Nếu thế lực thù địch của Triều Tiên không sử dụng vũ khí hạt nhân thì Triều Tiên sẽ không lạm dụng vũ khí hạt nhân”. Trước mắt là vẫn phải coi trọng công nghệ hạt nhân hơn nữa, phát triển vũ khí hạt nhân loại nhỏ và vũ khí hạt nhân chiến thuật gọn nhẹ hơn nữa, đồng thời nâng cao độ chính xác tiêu diệt đối tượng chiến lược trong phạm vi 15.000 km, nâng cao năng lực đánh đòn hạt nhân phủ đầu, trả đũa. Nhiệm vụ trong tương lai gần là ứng dụng sản xuất đầu đạn bay siêu thanh, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển tên lửa đạn đạo xuyên lục địa động cơ nhiên liệu rắn phóng từ tàu ngầm và từ mặt đất; có tàu ngầm hạt nhân và vũ khí hạt nhân chiến lược phóng từ tàu ngầm, nâng cao năng lực tấn công hạt nhân tầm xa; trong thời gian ngắn vận dụng vệ tinh trinh sát quân sự, đảm bảo năng lực trinh sát thu thập tình báo, đấy nhanh công tác nghiên cứu khoa học chế tạo máy bay trinh sát không người lái tinh vi có tầm trinh sát 500 km.
Đại hội lần này cũng nhắc lại lập trường mang tính nguyên tắc trong quan hệ với Hàn Quốc và với Mỹ. Với Hàn Quốc, nhất trí ngừng các hành động thù địch chống đối lẫn nhau, nghiêm túc thực hiện tuyên bố chung đã ký năm 2018. Phía Triều Tiên cho rằng, có khôi phục và làm sống lại được quan hệ Bắc-Nam hay không là hoàn toàn phụ thuộc thái độ của Hàn Quốc; rằng, hợp tác chống dịch, hợp tác nhân đạo hay du lịch là những vấn đề không bản chất, nó chỉ gây ấn tượng “cải thiện” mà thôi. Ông Kim Jong-un chỉ trích Hàn Quốc đang không ngừng nhập khẩu trang thiết bị quân sự và không ngừng tập trận với Mỹ, vi phạm thỏa thuận Bắc-Nam về đảm bảo hoà bình ổn định quân sự trên bán đảo Triều Tiên. Ông nhấn mạnh một nguyên tắc cứng rắn đối với Mỹ là phải nhất quán kiên trì phương thức “lấy mạnh đáp lại mạnh, lấy thiện chí đáp lại thiện chí”. Ông cho rằng “chướng ngại vật lớn nhất của phát triển cách mạng là Mỹ”. “Dù ai cầm quyền ở Mỹ, bản chất chính sách thù địch (của Mỹ) đối với Triều Tiên vẫn không thay đổi, công tác đối ngoại phải xây dựng chiến lược và có sách lược đối với Mỹ”.
Ngoài ra, trong chính sách đối ngoại, Triều Tiên nhấn mạnh chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường đoàn kết hợp tác chính đảng cách mạng theo hướng tự chủ nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đối ngoại của đất nước.
Báo cáo tổng kết của Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên khóa VII cũng dành một phần quan trọng phân tích về vai trò của Đảng và công tác xây dựng Đảng trong hoàn cảnh mới. Về mặt tổ chức, Đại hội lần này đã khôi phục Ban Bí thư Trung ương Đảng và chức vụ Tổng Bí thư, ông Kim Jong-un được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng[3].
Tổng quan về chiến lược
Như vậy, qua Đại hội lần này có thể thấy phương hướng tổng thể của kế hoạch 5 năm mới của Triều Tiên là tập trung sức lực phát triển kinh tế, kích hoạt toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sở vững chắc cho cải thiện đời sống nhân dân. Mục tiêu trọng điểm của kế hoạch vẫn là tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp, đồng thời thúc đấy hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm bổ sung và tăng cường cho phát triển của nền kinh tế lấy tự lực canh sinh làm cơ sở. Kế hoạch phát triển này cho thấy Triều Tiên nhận thức được tình trạng bị bao vây cấm vận có khả năng còn lâu dài, dù khó khăn đến mấy cũng quyết tâm duy trì sự sống còn và tiếp tục phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân. Tăng cường khả năng răn đe hạt nhân, xây dựng lực lượng quân sự không phải là trọng tâm, nhưng không thể thiếu vì đó vừa tăng cường năng lực tự vệ vừa là sách lược của Triều Tiên nhằm tạo không gian đối thoại, giải quyết vấn đề.
Vai trò của Đảng và công tác xây dựng đảng được Ban Chấp hành Trung ương đứng đầu là nhà lãnh đạo Kim Jong-un coi trọng hơn trước đây và có nhiều đổi mới. Nếu như Đại hội VII, Đại hội đầu tiên dưới thời nhà lãnh đạo Kim Jong-un diễn ra cách Đại hội trước đó 36 năm thì Đại hội này được tổ chức cách Đại hội trước đúng 5 năm theo quy định của Điều lệ Đảng; Ban Bí thư và chức vụ Tổng Bí thư được khôi phục; Báo cáo tổng kết mạnh dạn nhìn thẳng vào những yếu kém và phân tích nguyên nhân một cách cầu thị v.v... Tất cả những chi tiết này cho thấy Đảng Lao động Triều Tiên đang từng bước đổi mới, vai trò của Đảng được nhấn mạnh hơn, đưa Đảng vào quỹ đạo hoạt động bình thường như các chính đảng khác trên thế giới.
Về chính sách đối ngoại, mặc dù chưa có gì là đột phá, nhưng những tín hiệu phát ra vào thời điểm này có ý nghĩa quan trọng. Đó là lúc nước Mỹ chuyển giao quyền lực, chính quyền của Tổng thống mới Joe Biden chưa định hình chiến lược ngoại giao, trong đó có chính sách Triều Tiên. Những tín hiệu này có thể có tác động nhất định đến chính sách mới của Mỹ. Những nỗ lực phi hạt nhân hóa, cải thiện quan hệ Mỹ-Triều dù bị bế tắc trong cuối nhiệm kỳ của chính quyền Donald Trump nhưng chưa phải đã đi đến tuyệt vọng, nó cũng có thể được kích hoạt trở lại nếu như mỗi bên có thêm một chút thiện chí. Người ta vẫn hy vọng điều này sẽ diễn ra vì đó là lợi ích của cả Mỹ và Triều Tiên, của cả khu vực và cả thế giới. Nếu quan hệ Mỹ-Triều không được cải thiện, chắc chắn quan hệ liên Triều cũng gặp khó khăn và vấn đề bán đảo Triều Tiên không thể giải quyết./.
[1] Cố vấn cao cấp trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quan hệ Quốc tế; Nguyên Vụ trưởng Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương
[2] Còn gọi là “Chủ nghĩa ưu tiên nước ta” hay “Chủ nghĩa ưu tiên”.
[3] Năm 2011, khi Tổng Bí thư Kim Jong-il qua đời, Triều Tiên đã quyết định để ông giữ chức vụ “Tổng bí thư vĩnh viễn”. Ông Kim Jong-un lên thay thế với chức vụ Bí thư thứ nhất của Đảng. Đại hội đảng lần thứ VII năm 2016, chức vụ Bí thư thứ nhất bị bãi bỏ và thay bằng chức Chủ tịch Đảng. Lần này chức vụ Tổng Bí thứ lại được khôi phục.
Ghi chú: Bài viết đăng trên Tạp chí Đối ngoại số 131 (1+2/2021). Được sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang, CSSD xin đăng lại bài viết.
Xem thêm
|
Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam TCCS - Trong công cuộc phát triển đất nước, Việt Nam đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Hiện nay, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đang được triển khai tích cực trong bối cảnh mới của thế giới có nhiều biến động.
TS. Nguyễn Mạnh Hùng
Chủ tịch CSSD
Từ quá trình nhận thức về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế”…
Trước Đại hội IX năm 2001, văn kiện của Đảng chỉ nói đến “quốc tế hóa”, chưa đề cập tới “toàn cầu hóa”. Từ Đại hội IX của Đảng, Việt Nam đề cập đến “toàn cầu hóa kinh tế”. Khi đó, Báo cáo chính trị Đại hội IX nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”(1). Qua hai nhiệm kỳ Đại hội IX và Đại hội X của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh tới “toàn cầu hóa kinh tế”. Đến Đại hội XI của Đảng (năm 2011), Việt Nam chuyển từ nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” sang nhận thức về “toàn cầu hóa”. Báo cáo chính trị Đại hội XI nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”(2). Đại hội XII của Đảng (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”(3). Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...”(4).
.jpg)
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc dự phiên thảo luận thứ hai Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) với chủ đề: “Xây dựng tương lai bền vững, bao trùm và có sức chống chịu” bằng hình thức trực tuyến, ngày 22-11-2020_Ảnh: TTXVN)
Cùng với nhận thức về toàn cầu hóa, Việt Nam từng bước tiến hành hội nhập quốc tế. Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”(5). Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiến thêm một bước trong nhận thức và hành động hội nhập quốc tế; đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”(6). Đến Đại hội XI của Đảng, Việt Nam nhấn mạnh đến hội nhập quốc tế: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”(7).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 phương hướng cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó phương hướng thứ năm là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(8). Cương lĩnh đặt ra yêu cầu: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(9). Ngày 10-4-2013, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập quốc tế”. Một trong những nhiệm vụ tổng quát mà Đại hội XII của Đảng đề ra là: “Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”(10). Đại hội XII đề ra chủ trương: “Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, xây dựng và triển khai chiến lược tham gia các khu vực mậu dịch tự do với các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng, ký kết và thực hiện hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước… Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”(11). Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đưa ra định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”(12).
Như vậy, từ Đại hội IX của Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” ngày càng đầy đủ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Từ nhận thức về “quốc tế hóa” đã phát triển thành nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” và đi đến nhận thức về “toàn cầu hóa”. Trên cơ sở thực tiễn về “toàn cầu hóa”, Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” và ngày nay là chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, “nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”, “đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân gửi thông điệp tới phiên họp cấp cao kỷ niệm 25 năm Hội nghị Thế giới về Phụ nữ lần thứ IV với chủ đề: “Thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái”(trong khuôn khổ Tuần lễ cấp cao của Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 75), ngày 10-1-2020_Ảnh: TTXVN
… đến bối cảnh mới của “toàn cầu hóa” hiện nay
Những năm gần đây, ở Việt Nam, cũng như trên thế giới, có ý kiến cho rằng, “toàn cầu hóa” đang chững lại; thậm chí có ý kiến đề cập đến “phi toàn cầu hóa”. Luồng ý kiến này nhấn mạnh đến xu hướng gia tăng hoạt động bảo hộ ở nhiều nước trên thế giới, đến cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và những tranh chấp về thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, đến việc Mỹ đe dọa rút và đã rút khỏi một vài định chế quốc tế... Do vậy, câu hỏi đặt ra hiện nay là phải chăng toàn cầu hóa đang chững lại? Việc trả lời câu hỏi này là một trong những cơ sở căn bản để Đại hội XIII của Đảng hoạch định đường lối phát triển đất nước trong những năm tiếp theo.
Xét về bản chất, “toàn cầu hóa” là quá trình hình thành nên “cái toàn cầu”, phân biệt với “cái khu vực” (chỉ liên quan đến những khu vực địa - kinh tế - chính trị nhất định trên thế giới), “cái phe, khối” (chỉ liên quan đến các tập hợp lực lượng trên thế giới), “cái quốc gia - dân tộc” (chỉ liên quan đến từng đất nước). Xã hội loài người ngày nay, với nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại, cho thấy toàn cầu hóa đã tiến rất xa và sâu rộng; đồng thời, khẳng định “toàn cầu hóa” thực sự là một xu thế khách quan, không thể đảo ngược. Điều rõ ràng là, dù còn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết hay khuyết tật... trong cả ba hệ thống lớn nói trên, nhưng nhu cầu phát triển nội tại, tự thân của xã hội loài người chính là gốc rễ quy định xu thế toàn cầu hóa. Điều đáng chú ý là tiến trình toàn cầu hóa không diễn ra một cách tuyến tính, mà có những bước nhảy vọt, gắn với các cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất xã hội loài người. Có thể khẳng định rằng, trong thời gian tới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0) bùng nổ, nhất định sẽ có bước nhảy vọt mới trong tiến trình toàn cầu hóa, toàn cầu hóa hoàn toàn không chững lại.
Sự gia tăng các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây không đồng nghĩa với việc chia cắt thị trường thế giới thành những thị trường quốc gia hay phe, khối biệt lập, không làm đứt đoạn các dòng đầu tư xuyên quốc gia, không làm mất đi các vấn đề toàn cầu nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thế giới mà việc giải quyết chúng đòi hỏi phải tăng cường hợp tác và những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế. Có chăng, chủ nghĩa bảo hộ chỉ đặt ra những “trở ngại” mới về thuế quan và phi thuế quan cho lưu thông hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, mà những trở ngại này luôn tồn tại trong tiến trình toàn cầu hóa. Những số liệu thống kê của thế giới về thương mại và đầu tư cho thấy rất rõ rằng, bất chấp sự gia tăng của các hoạt động bảo hộ trong những năm gần đây, thương mại thế giới và đầu tư quốc tế vẫn tăng lên.
Việc hình thành “cái toàn cầu” trong quá trình toàn cầu hóa kéo theo việc ra đời các định chế toàn cầu, như Liên hợp quốc và các tổ chức thuộc Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)... Các định chế này không phải là “nhất thành, bất biến”, cơ chế hoạt động của chúng phải luôn cần đổi mới, cập nhật cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của “cái toàn cầu”. Đây là sự thích nghi, bảo đảm sức sống, nâng cao tính hiệu quả của các định chế quốc tế, chứ không phải và càng không thể ngăn cản tiến trình toàn cầu hóa. Bước phát triển mới của toàn cầu hóa gắn với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tất yếu kéo theo những đổi mới, cải tổ, cải cách các định chế toàn cầu hiện có và có thể ra đời những định chế quản trị toàn cầu mới.
Yêu cầu đặt ra đối với quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
.jpg)
Đại sứ Đặng Đình Quý, Trưởng phái đoàn Thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc chủ trì phiên thảo luận về quan hệ hợp tác giữa Liên hợp quốc và ASEAN trong duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, tháng 1-2020_Nguồn: UN
Có thể hiểu quá trình hội nhập quốc tế của một đất nước (quốc gia) là sự tham gia vào hệ thống thế giới và trở thành một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới, trước hết là bộ phận cấu thành của “nền kinh tế thế giới”, “nền chính trị thế giới” và “nền văn minh nhân loại”. Sự tham gia ở đây là thông qua các hoạt động tương tác (hợp tác, cạnh tranh và đấu tranh...) với các bộ phận cấu thành khác nhau trong “hệ thống”, bao gồm cả việc gia nhập hay rút khỏi các “phân hệ” khác nhau trong hệ thống. Tất cả các hoạt động này đều là hoạt động có chủ đích, nhằm: 1- Phát triển quốc gia; 2- Khẳng định bản sắc quốc gia; 3- Giành vị thế xứng đáng cho quốc gia trong hệ thống; 4- Tham gia hoàn thiện và phát triển hệ thống...
Cần loại bỏ lối suy nghĩ giản đơn nhưng cũng khá phổ biến hiện nay ở Việt Nam, rằng “hội nhập quốc tế” là hình thức phát triển cao của “hợp tác quốc tế”. Vấn đề là ở chỗ “hợp tác quốc tế” và “hội nhập quốc tế” là thuộc các lớp khái niệm khác nhau. Hợp tác quốc tế chỉ là một trong nhiều phương thức tương tác giữa các nước với nhau; bên cạnh hợp tác quốc tế còn có cạnh tranh, đấu tranh, liên minh, liên kết, đối đầu, chiến tranh... Điểm cơ bản là ở chỗ, khác với khái niệm “hội nhập quốc tế”, khái niệm “hợp tác quốc tế” không đề cập tới việc cấu thành hệ thống chỉnh thể thế giới.
Để đánh giá thực trạng hội nhập quốc tế của một quốc gia, cần lấy phạm vi, mức độ tham gia và vị thế của quốc gia đó trong các mặt đời sống của cộng đồng quốc tế, trong các hệ thống thế giới làm tiêu chí:
Về chiều “rộng - hẹp”, có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập hẹp, khi quốc gia hội nhập chỉ tham gia một vài lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia phần lớn các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập rộng, khi quốc gia hội nhập tham gia tất cả các lĩnh vực trong đời sống cộng đồng quốc tế.
Về chiều “nông - sâu”, cũng có ba cấp độ hội nhập: Một là, hội nhập nông, khi quốc gia hội nhập hầu như không có vị trí, vai trò trong cộng đồng quốc tế; hai là, hội nhập tương đối sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò nhất định trong cộng đồng quốc tế; ba là, hội nhập sâu, khi quốc gia hội nhập có vị trí, vai trò đáng kể trong cộng đồng quốc tế. Nói theo ngôn ngữ của lý thuyết hệ thống, hội nhập sâu là trường hợp quốc gia hội nhập với tư cách là một bộ phận cấu thành hệ thống, có ảnh hưởng đáng kể đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” (emergent) của cả hệ thống; còn hội nhập nông là trường hợp quốc gia hội nhập hầu như không có ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển “tính trồi” của cả hệ thống.
Với cách tiếp cận trên, có thể thấy, sau hai thập niên chủ động và tích cực hội nhập quốc tế từ Đại hội IX của Đảng đến nay, Việt Nam từng bước tham gia tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội quốc tế; trở thành thành viên có trách nhiệm, có vị trí, vai trò và ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng quốc tế, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... Điều đó có nghĩa là Việt Nam tích cực hội nhập vào chỉnh thể thế giới. Do vậy, để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của “toàn cầu hóa” và giai đoạn mới của “hội nhập quốc tế”, cần quan tâm một số vấn đề lớn sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” để làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đặc biệt, cần thấy rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Thứ hai, Việt Nam hiện tham gia các mặt đời sống chính trị - xã hội quốc tế, tức là đã hội nhập rộng vào chỉnh thể thế giới, nhưng mới chỉ dừng ở mức độ hội nhập tương đối sâu với vị trí, vai trò nhất định trong một số lĩnh vực. Tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đưa Việt Nam trở thành bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới. Tới đây, cần xác định việc giành lấy vị trí, vai trò ngày càng đáng kể trong nền kinh tế thế giới, nền chính trị thế giới và nền văn minh nhân loại là nội dung chủ yếu của tiến trình chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Về kinh tế, cần phấn đấu giành chỗ đứng trong các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; ưu tiên thúc đẩy phát triển nhanh các ngành kinh tế số và công nghiệp 4.0. Cơ hội đang mở ra cho Việt Nam ở thời hậu dịch bệnh COVID-19, không được bỏ lỡ. Muốn thế, cần ưu tiên phát triển các mạng kết nối Việt Nam với thế giới, cả “kết nối cứng” và “kết nối mềm”.
(1).jpeg)
Tỉnh An Giang tổ chức Lễ công bố xuất khẩu lô hàng gạo thơm của Tập đoàn Lộc Trời sang Châu Âu theo Hiệp định thương mại tự do EVFTA, ngày 22-9-2020 (Trong ảnh: Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các đại biểu tham quan sản phẩm tại Nhà máy sản xuất gạo Lộc Trời)_Ảnh: TTXVN
Về chính trị, tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn, nhất là các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, trong ASEAN. Chủ động tham gia xử lý các vấn đề quốc tế và khu vực. Thể hiện vai trò của Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Về văn hóa - xã hội, cần đẩy mạnh quảng bá lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ Việt Nam với thế giới; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản thiên nhiên, công viên địa chất, công viên sinh thái, di sản văn hóa thế giới, cả vật thể lẫn phi vật thể; khẳng định các giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp của Việt Nam, bản sắc Việt Nam; tích cực tham gia sáng tạo các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, khoa học... có tầm ảnh hưởng quốc tế; tham gia xử lý các vấn đề nhân đạo trên trường quốc tế; tham gia đấu tranh với các hiện tượng, hoạt động phi văn hóa, phản văn hóa, chống lại nhân loại... Cần đặc biệt quan tâm việc nhân thêm và phát huy “sức mạnh mềm” của đất nước, cạnh tranh về “sức mạnh mềm” trên trường quốc tế. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, các phương tiện truyền thông xã hội ngày càng có vai trò lớn trong quảng bá văn hóa và cả trong “xâm lăng” văn hóa, lan tỏa các giá trị xã hội và cả làm xói mòn các giá trị xã hội, phát huy “sức mạnh mềm” và cả hạn chế “sức mạnh mềm” của các quốc gia, phát triển ổn định xã hội và cả gây bất ổn xã hội... Phương tiện truyền thông xã hội trở thành một hiện tượng văn hóa, một kênh thông tin, một công cụ quản trị. Bên cạnh việc tăng cường quản lý nhà nước đối với các phương tiện truyền thông xã hội, một số nước chủ động sử dụng và phát huy vai trò kênh thông tin, công cụ quản trị của các phương tiện truyền thông này. Việt Nam cần có cách tiếp cận mới đối với các phương tiện truyền thông xã hội, không chỉ dừng ở chỗ coi chúng là đối tượng quản lý.
Thứ ba, khi triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh những vấn đề cần xử lý về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đơn cử như, trong tiến trình hội nhập quốc tế, cần luôn điều chỉnh, sửa đổi hệ thống pháp luật trong nước, tuy nhiên, phải có lộ trình, bước đi cẩn trọng, để vừa củng cố độc lập, tự chủ, vừa hội nhập quốc tế thành công. Hay là vấn đề đối phó với nguy cơ lệ thuộc vào thị trường bên ngoài, lệ thuộc kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị...; hoặc vấn đề phải đối phó với sự xâm lăng văn hóa, xử lý hiện tượng giao thoa văn hóa trong hội nhập quốc tế, những mâu thuẫn trong xây dựng con người Việt Nam dưới tác động của trào lưu hình thành công dân toàn cầu, sự xâm nhập của các giá trị xã hội không phù hợp đối với nước ta...
Thứ tư, Việt Nam cần chủ động và tích cực tham gia vào việc đổi mới, cải tổ, cải cách hay thiết lập các định chế toàn cầu và khu vực; đóng góp nhiều hơn vào xây dựng “luật chơi”, coi đây là lợi ích quan trọng của quốc gia.
Thứ năm, trong quá trình hội nhập quốc tế, luôn nảy sinh ngày càng nhiều những tranh chấp. Ngoài những cơ chế quốc tế phổ biến, thế giới còn có những cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế mang tính khu biệt, chuyên ngành mà ta chưa có nhiều kinh nghiệm. Do đó, vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập là nâng cao năng lực phòng, chống, xử lý, giải quyết những tranh chấp quốc tế, gắn với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên sâu về các lĩnh vực này./.
------------------------
(1), (5) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 617, 664
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.28
(3), (10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 18, 79, 155-156
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 112
(7), (8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 235-236, 72, 83-84
(4), (12) Nguyễn Phú Trọng: “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng”, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang)
Bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản. Trước khi đăng lại, CSSD đã nhận được sự đồng ý của Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch CSSD.
Xem thêm
|
Giữa một thế giới vạn biến * Bài viết đăng trên Báo điện tử Chính phủ ngày 6/8/2018
Tình hình quốc tế trong hai năm qua có những chuyển biến rõ rệt. Một kỷ nguyên mới cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đã xuất hiện và có thể đang tiến vào trạng thái “chiến tranh lạnh mới”. Việt Nam cần nhận biết bản chất của những biến đổi, đẩy mạnh cải cách, nâng cao chất lượng hợp tác với các nước lớn và cộng đồng ASEAN.
Một xu hướng nổi bật là cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên các vùng biển và đại dương thế giới. Nỗ lực của Trung Quốc để trở thành cường quốc biển đã kích hoạt sự thức tỉnh mới của châu Á về biển, giục giã các quốc gia vươn ra biển cả và đại dương nhằm bảo vệ lợi ích biển của quốc gia, sử dụng biển vào các mục tiêu chính trị, kinh tế và quân sự. Một quốc gia muốn vươn ra biển cả thì cả dân tộc ấy phải có sự đam mê biển cả.
Một nhà tư tưởng lớn người Mỹ về sức mạnh biển, Alfred Mahan, đã tạo ra niềm cảm hứng cho người Trung Quốc hiện đại từ bỏ tư duy đất liền để hướng ra biển cả, xây dựng lực lượng hải quân theo những tiêu chí mà Mahan nêu lên trong tác phẩm kinh điển của ông xuất bản từ cuối thế kỷ 19 (Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660-1783, NXB Boston Little, Brown & Company, 1890). Nhưng lại buộc những người đồng hương thời nay của ông tìm cách ngăn chặn việc Trung Quốc kiểm soát Biển Đông, mở rộng tầm ảnh hưởng ra Tây Thái Bình Dương và vòng cung Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Tổng thống Mỹ Donald Trump, đại diện cho các tập đoàn lợi ích mới của nước Mỹ, đã thực hiện những điều chỉnh chính sách đối nội, đối ngoại sâu rộng nhằm khôi phục lại sức mạnh của nước Mỹ, chống lại các thế lực muốn tiếm quyền lãnh đạo toàn cầu của Mỹ.
Donald Trump đồng thời là đại diện tiêu biểu cho trào lưu dân túy chủ nghĩa nở rộ tại nhiều quốc gia trong mấy năm gần đây phản biện lại cơ chế cũ, đòi hỏi đổi mới các chính sách đối nội, đối ngoại để ứng phó với các thách thức hoặc khủng hoảng mới. Các chính sách tài chính tiền tệ, an ninh quân sự và nhập cư, đặc biệt là thương mại, của chính quyền Trump tạo ra luật chơi mới, tác động thuận nghịch đến nhiều mối quan hệ quốc tế. Các mục tiêu phi truyền thống tỏ ra khá nhất quán, nhưng đi cùng với các phát biểu thiếu nhất quán, làm cho việc dự báo chính sách đối ngoại của chính quyền Mỹ khó khăn. Nhưng tính khó dự đoán ấy lại chính là một đặc trưng của chính sách đối ngoại mang tên “Donald Trump”.
Quan hệ Trung-Mỹ đang chuyển biến về chất, bước vào giai đoạn “hợp tác khi có thể và cạnh tranh là tất yếu”. Sự chuyển biến này xuất phát từ sự phản tỉnh chiến lược của chính quyền Trump về nguy cơ Trung Quốc đối với lợi ích quốc gia của Mỹ.
Trong mối quan hệ ấy, chính quyền Trump có lẽ không chỉ muốn giảm 200 tỷ USD thâm hụt trong cán cân thương mại. Cuộc đối đầu thương mại Mỹ-Trung chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Vì lẽ, đây là cuộc đấu tranh quyền lực về quyền lãnh đạo thế giới thế kỷ 21.
Mỹ đang tìm các hướng đột phá để giữ vững quyền lãnh đạo, đồng thời chống đỡ một trật tự thế giới đang lung lay, một trật tự vốn dựa theo khuôn mẫu của Hòa ước Westphalia dựa trên cân bằng quyền lực.
Nhà chiến lược của Hoa Kỳ, Tiến sĩ Henry Kissinger đang mối lái cho sự cân bằng quyền lực 2.0 Mỹ-Nga-Trung - một cấu trúc quyền lực mà ông ta từng thành công trong những năm 1970-1980. Có điều, đối tượng và đối tác nay đã đổi vai cho nhau; môi trường mới cần một số điều kiện mới. Tổng thống Trump sẽ phải lãnh đạo nước Mỹ đạt đến sự đồng thuận cho việc cải thiện quan hệ với Nga, nới lỏng, tiến tới bỏ cấm vận do phương Tây áp đặt đối với nước Nga, giảm căng thẳng trong quan hệ NATO-Nga, để tổ chức hiệp ước quân sự này quay về đối phó với các thách thức mới trong lòng phương Tây, trong đó có việc Trung Quốc định dùng Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) đột phá một vài mắt xích tại một trong các hướng chính của BRI là châu Âu.

Ảnh: Tiến sĩ Kissinger, 93 tuổi, trong một lần tiếp xúc với nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình gần đây, mối lái cho một thiết kế quyền lực quốc tế giai đoạn mới
Cặp quan hệ Trung-Mỹ là một trụ cột của hệ thống quan hệ quốc tế đương đại. Sự chuyển hóa của cặp quan hệ này đương nhiên sẽ dẫn đến việc cài đặt lại quan hệ của cả hệ thống, dẫn tới tập hợp lực lượng mới và không ít thì nhiều, tác động đến mọi quốc gia.
Một đặc điểm nổi bật khác của tình hình thế giới mấy năm nay là Trung Quốc tiếp tục đà trỗi dậy mạnh mẽ, đóng vai trò vừa là động lực vừa là tác nhân của nhiều biến đối sâu rộng trên thế giới. Hai năm qua chứng kiến việc Trung Quốc xác định lộ trình tiến vào trung tâm vũ đài thế giới. Ít người nghi ngờ rằng, trong vòng 15 năm tới, nếu Trung Quốc vẫn khai thác được “thời kỳ cơ hội chiến lược quốc tế”, nước này có thể hoàn thành những mục tiêu cơ bản mà Đại hội 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra. Nhưng, có lẽ không chỉ mục tiêu, mà cả các cách thức để thực hiện các mục tiêu ấy, đang gây lo ngại sâu sắc cho thế giới phương Tây. Nếu một liên minh lấy Trung Quốc làm đối thủ trở thành hiện thực, Trung Quốc sẽ gặp không ít khó khăn và sự trỗi dậy phải chậm lại.
Như các nền văn minh trong lịch sử nhân loại cho thấy, một cường quốc để giữ được vị thế trung tâm quyền lực, cần 4 yếu tố: Lãnh thổ phải đủ rộng; dân số phải đủ lớn; nền kinh tế phải đủ mạnh; hệ tư tưởng phải đủ bền vững, gắn kết dân tộc mình và lan tỏa ảnh hưởng ra thế giới. Trung Quốc có lẽ phải làm nhiều hơn nữa bằng những cách tiếp cận phù hợp với tâm thức thời đại.
Các chiến lược gia Mỹ cho rằng, Mỹ có 10 năm trước khi quá muộn để ngăn chặn việc Trung Quốc tiến lên chiếm lĩnh vị trí chủ đạo trên vũ đài thế giới. Đối đầu thương mại chỉ là đòn mở đầu. Tiếp theo có thể là tiền tệ, dầu lửa, là những thứ còn nằm trong tầm kiểm soát của Mỹ. Mới đây, Mỹ không chỉ cùng các đồng minh khởi xướng sáng kiến đầu tư cơ sở hạ tầng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để đối trọng với BRI, mà có thể sẽ sử dụng các biện pháp tổng hợp để buộc Trung Quốc cuối cùng phải quay về giải quyết những vấn đề bên trong hoặc thu hẹp các mục tiêu tham vọng “đi ra thế giới”.
Trong lịch sử lâu dài của mình, Trung Quốc từng sáng tạo nền văn minh cổ đại xán lạn. Cũng không phải lần đầu tiên Trung Quốc trở thành quốc gia giàu mạnh nhất thế giới, mà lịch sử từng chứng kiến các giai đoạn thịnh trị thời nhà Đường hoặc nhà Thanh. Trong bình “hồ lô” mà người Hoa Hạ truyền lại hẳn không thiếu các dược phương. Trước đòn phủ đầu thương mại của Mỹ, người Trung Quốc đang phản tỉnh chiến thuật về đối sách. Trước mắt, Bắc Kinh có thể đang tìm sự đồng thuận nội bộ về những nhượng bộ sách lược để hóa giải cuộc xung đột Mỹ-Trung. Về lâu dài, Trung Quốc sẽ sử dụng quốc lực dồi dào và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương để đạt đến sự tự chủ về công nghệ cao, cũng như về thương mại…
Mâu thuẫn Mỹ-Trung sẽ tác động đến nhiều mặt của đời sống quốc tế theo chiều hướng thuận nghịch. Mâu thuẫn này có thể làm chậm lại hoặc cản trở việc định hình thế giới lưỡng cực, duy trì cục diện đa cực. Nhưng các cọ xát địa chính trị/kinh tế nếu vượt tầm kiểm soát, có thể tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng của kinh tế toàn cầu.
Ông Trump vừa qua đã làm một cuộc cải cách sâu sắc về thuế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Mỹ đổi mới công nghệ. Trung Quốc có thể sẽ triển khai những cải cách được ấp ủ từ lâu. Các trung tâm quyền lực khác tích cực sắp xếp lại ngôi nhà của mình, tối đa hóa lợi ích trong các tập hợp lực lượng mới.
Những quốc gia như Việt Nam sẽ chịu không ít thách thức từ môi trường địa chính trị/kinh tế mới, có thể bị cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 qua mặt. Dòng vốn đầu tư có thể bị rút về chính quốc hoặc đất nước trở thành bãi thải công nghệ thứ cấp.
Việt Nam trước hết cần nhận biết bản chất của những biến đổi, đẩy mạnh cải cách, nâng cao nội lực của mình, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế theo định hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Phải nâng cao chất lượng hợp tác với các nước lớn và cộng đồng ASEAN. Cần từ bỏ định kiến cũng như những ràng buộc không hợp thời về ý thức hệ, giải phóng tư tưởng, mở rộng quan hệ dựa trên “lợi ích tương quan” với các đối tác, có thể “cộng sinh” trong những lợi ích chung. Việc vận dụng phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại càng mang tính thời sự sâu sắc./.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế (CSSD)
Xem thêm
|
Cải cách bộ máy chính phủ Trung Quốc-Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Nguyễn Vinh Quang
Cố vấn cao cấp
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quan hệ Quốc tế (CSSD)
* Bài viết đã đăng trên tạp chí Cộng sản số tháng 4/2018.
Kể từ cải cách mở cửa (1978) đến nay, Trung Quốc đã tiến hành 7 lần điều chỉnh, đổi mới bộ máy quản lý điều hành từ Trung ương đến địa phương, Trung Quốc gọi là “cải cách cơ cấu chính phủ”[1]. Mục tiêu chủ yếu là khắc phục tình trạng chính phủ mạnh về chức năng quản lý, yếu về chức năng phục vụ, cồng kềnh về cơ cấu và biên chế, chồng chéo mơ hồ về chức năng, đẩy nhanh việc xây dựng một chính phủ phục vụ, trách nhiệm, liêm khiết, hiệu quả, vận hành hài hòa đúng luật, thích ứng với thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Việc đi sâu nghiên cứu quá trình cải cách cơ cấu chính phủ của Trung Quốc có ý nghĩa tham khảo rất quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là sau khi các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ra đời.
I. Nhìn lại 7 cuộc cải cách cơ cấu chính phủ Trung Quốc
1) Năm 1982: Quy định rõ cơ cấu về chức vụ, độ tuổi và văn hoá của các cấp, các bộ, đã giảm được cấp phó. Tinh giản bộ máy Quốc Vụ viện từ 100 bộ ngành xuống 61 bộ ngành; giảm biên chế Quốc vụ viện từ 51.000 người xuống 30.000 người. Cuộc cải cách này đã nâng cao được năng suất hiệu quả công việc, thực hiện trẻ hóa cán bộ. Thành công không chỉ là tinh giản bộ máy, mà ảnh hưởng lâu dài của cải cách này một là xóa bỏ được chế độ giữ chức vụ lãnh đạo suốt đời, hai là đa số tri thức trẻ lên làm lãnh đạo với tiêu chuẩn “bốn hóa” (cách mạng hóa, trẻ hóa, tri thức hóa, chuyên môn hóa).
2) Năm 1988: Quốc vụ viện giảm từ 45 bộ ngành xuống 41 bộ ngành; 22 đơn vị trực thuộc giảm xuống 19 đơn vị; 75 đơn vị đặc biệt giảm xuống 44 đơn vị; giảm biên chế nhân viên 19,2%. Lần đầu tiên đề ra nhiệm vụ chuyển đổi chức năng chính phủ. Sau cải cách, Quốc vụ viện giảm biên chế được hơn 9.700 người so với trước.
3) Năm 1993: Sau cải cách, tổng cộng các bộ, ủy ban, đơn vị trực thuộc Quốc vụ viện từ 86 đơn vị giảm xuống 59 đơn vị; giảm biên chế nhân viên 20%. Quốc vụ viện không lập các Cục nhà nước do Bộ quản lý nữa. Đơn vị sự nghiệp trực thuộc Quốc vụ viện điều chỉnh thành 8 đơn vị. Cải cách lần này nêu ra mục tiêu xây dựng thể chế quản lý hành chính thích ứng với sự phát triển của kinh tế thị trường XHCN, thực hiện tách chính quyền với doanh nghiệp, chuyển đổi chức năng chính phủ, chức năng quản lý hành chính chuyển theo hướng quy hoạch tổng thể, nắm vững chính sách, hướng dẫn tin học, phối hợp tổ chức, cung cấp dịch vụ, kiểm tra giám sát. Lúc này mục tiêu “thể chế kinh tế thị trường XHCN” đã chính thức ra đời năm 1992.
4) Năm 1998: Đây là cuộc cải cách cơ cấu chính phủ mạnh nhất từ trước đến nay. Nhiệm vụ chủ yếu là chuyển đổi chức năng chính phủ theo yêu cầu của kinh tế thị trường XHCN, cải cách chế độ sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Giải thể 15 bộ, lập thêm 4 bộ, đổi tên 3 bộ. Các bộ và ủy ban của Quốc vụ viện từ 40 giảm xuống còn 29; tinh giản 1/4 cơ cấu trong các bộ; chuyển giao hơn 200 chức năng cho doanh nghiệp, địa phương, các tổ chức môi giới xã hội, các tổ chức ngành nghề; giảm biên chế nhân viên của Quốc vụ viện 50% (từ 3.400 xuống 1.700). Tổng cộng từ Trung ương đến các cấp địa phưởng giảm 47% nhân viên. Đặc điểm nổi bật là về quản lý hành chính, chính phủ không quản lý kinh tế các ngành công nghiệp cụ thể.
5) Năm 2003: Tiến hành trong bối cảnh Trung Quốc gia nhập WTO. Ngoài Văn phòng, Quốc vụ viện còn 28 bộ. Thành lập mới một cơ cấu đặc biệt trực thuộc Quốc vụ viện là Ủy ban Giám sát và Quản lý tài sản nhà nước, cải tổ Ủy ban Phát triển và Kế hoạch nhà nước thành Ủy ban Phát triển và Cải cách nhà nước. Cuộc cải cách này thúc đẩy thêm một bước việc chuyển đổi chức năng chính phủ, nêu rõ chức năng chính phủ phải tập trung vào 4 mặt: điều tiết kinh tế, giám sát quản lý thị trường, quản lý xã hội và dịch vụ công. Mục tiêu cải cách là xây dựng một thể chế quản lý hành chính quy phạm chuẩn mực, vận hành hài hòa, công bằng minh bạch, liêm khiết hiệu quả.
6) Năm 2008: Lập các bộ mới là Bộ Công nghiệp và Tin học hóa, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên nhân lực và Bảo đảm xã hội, Bộ Bảo vệ môi trường, Bộ Xây dựng nhà ở và thành thị nông thôn. Giải thể một số bộ như Ủy ban Khoa học kỹ thuật quốc phòng, Bộ ngành nghề tin học, Bộ Giao thông, Bộ Nhân sự, Bộ Lao động và bảo đảm xã hội, Bộ Xây dựng. Ngoài Văn phòng, Quốc vụ viện còn lại 27 bộ. Nhìn chung cải cách lần này là sự tiếp tục và đi sâu thêm trên cơ sở các cuộc cải cách trước đó nhằm thích ứng với bối cảnh gia nhập WTO.
7) Năm 2013: Trọng điểm cải cách lần này là xoay quanh chuyển đổi chức năng và xử lý quan hệ giữa chức vụ và trách nhiệm, thúc đẩy cải cách “chế độ bộ lớn” một cách ổn định. Cuộc cải cách này lấy chuyển đổi chức năng làm hạt nhân, tiếp tục tinh giản bộ máy, giao bớt quyền lực, thúc đẩy cải cách cơ cấu, hoàn thiện cơ chế chế độ, nâng cao hiệu quả hành chính, đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, tạo sự đảm bảo về mặt chế độ cho xây dựng thành công toàn diện xã hội khá giả. Sau cải cách còn lại 25 bộ.
II. Về cuộc cải cách cơ cấu chính phủ của Thủ tướng Chu Dung Cơ
Người viết muốn đi sâu hơn về cuộc cải cách lần thứ 4 (năm 1998) do thủ tướng Chu Dung Cơ chủ trì vì cho rằng, đây là cuộc cải cách có quy mô lớn nhất, mang đến hiệu quả rõ ràng nhất trong 7 cuộc cải cách cơ cấu (kết quả nêu ở phần trên). Các cuộc cải cách trước đó của Trung Quốc không giải quyết được những chướng ngại cơ bản như bộ máy chồng chéo, cồng kềnh, biên chế ngày càng phình ra; các cuộc cải cách sau đó chủ yếu là các cuộc điều chỉnh lại cơ cấu, không gây biến động lớn. Bởi vậy người Trung Quốc cho rằng, kể từ cải cách mở cửa đến nay, hai sự kiện được coi là “cuộc cách mạng” thật sự, làm xoay chuyển tình hình nội bộ Trung Quốc, đó là cuộc cải cách cơ cấu chính phủ của Chu Dung Cơ năm 1998 và cuộc chống tham nhũng của Tập Cận Bình hiện nay.
Xét bối cảnh và yêu cầu phát triển của Trung Quốc năm 1998, thấy nhiều nét tương đồng với bối cảnh Việt Nam hiện nay. Nhiều vấn đề gặp phải về bộ máy nhà nước cũng tương đồng với những vấn đề của Việt Nam đang đối mặt. Vào thời điểm nói trên ở Trung Quốc, về mặt lý luận, thể chế “kinh tế thị trường XHCN” đã hình thành và tiếp tục hoàn thiện; vai trò của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cũng như chức năng chính phủ và chức năng thị trường v.v... đã được xác định lại; thực tiễn đòi hỏi có một cuộc đổi mới về bộ máy chính quyền để thích ứng với thể chế kinh tế mới. Bởi thế, những kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình cải cách cơ cấu chính phủ giai đoạn này, rất đáng để chúng ta tham khảo.
II.1. Bối cảnh của cải cách
Nhiều vấn đề tồn tại trong bộ máy chính phủ dù đã qua nhiều lần cải cách vẫn chưa giải quyết được một cách căn bản. Sự bố trí bộ máy của chính phủ vẫn luôn mâu thuẫn với sự phát triển của kinh tế thị trường. Năm 1992, Đại hội Đảng lần thứ XIV quyết định xây dựng thể chế “kinh tế thị trường XHCN”. Năm 1993, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 quyết định khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường. Nếu không thay đổi cơ cấu, chức năng, quy mô của bộ máy điều hành của chính phủ, mâu thuẫn giữa cơ chế điều hành cũ với sự phát triển của thị trường ngày càng nổi cộm thành một lực cản khó vượt qua. Mặt khác bộ máy cồng kềnh, chồng chéo của thể chế kinh tế kế hoạch cũ ngày càng phình ra, không những gây khó khăn cho thị trường mà còn là gánh nặng quá tải cho tài chính nhà nước.
Những vấn đề phải giái quyết:
Một là, vấn đề chính quyền và doanh nghiệp dính vào nhau, chính quyền trực tiếp can dự vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không thể hình thành thể chế đầu tư có được quyết sách khoa học, dễ gây nên trách nhiệm không rõ ràng, quyết sách sai lầm, khó phát huy vai trò cơ sở của thị trường trong bố trí tài nguyên[2]. Chính quyền và doanh nghiệp không tách ra tất yếu dẫn đến chính quyền bao biện những việc thuộc về doanh nghiệp, phần nhiều các doanh nghiệp đặt dưới quyền các bộ, ngành quản lý kinh tế chuyên trách (các doanh nghiệp thường gọi các bộ chủ quản là “mẹ chồng khó tính”). Đồng thời, việc nhấn mạnh một cách phiến diện sự ràng buộc lẫn nhau giữa các bộ ngành tổng hợp với các bộ chuyên trách, càng tạo nên sự trùng lặp về chức năng giữa các bộ, mỗi bộ một lệnh, đùn đẩy đổ lỗi nhau, hiệu quả làm việc kém.
Hai là, nguyên tắc thiết lập bộ máy chính phủ vốn dĩ được xác lập trong điều kiện chế độ pháp luật XHCN chưa hoàn thiện. Chủ yếu dựa vào biện pháp hành chính để quản lý kinh tế và công việc xã hội. Rất nhiều vấn đề đáng lẽ giải quyết bằng pháp luật hoặc thông qua các tổ chức trung gian và các tổ chức xã hội, cũng lại quản lý bằng bộ máy chính phủ, đổ quá nhiều trách nhiệm xã hội cũng như mâu thuẫn sự việc lên đầu chính phủ. Chính phủ đã quản quá nhiều việc không nên quản, không thể quản mà trên thực tế là quản không tốt, ảnh hưởng đến việc chính phủ không tập trung sức vào làm những việc phải làm. Cùng với sự hoàn thiện pháp chế XHCN và sự phát triển của các tổ chức xã hội, đòi hỏi phải kịp thời đổi mới những nguyên tắc thiết lập và phương thức vận hành chức năng bộ máy chính phủ, phân rõ ranh giới trách nhiệm giữa chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, thực hiện pháp chế hóa, quy phạm hóa kinh tế thị trường.
Ba là, hiện tượng bộ máy chính quyền cồng kềnh, trùng lặp, người nhiều hơn việc rất nghiêm trọng, “lắm chùa nhiều sãi”, “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”. Đã bao nhiêu cuộc “tinh giản”, nhưng lại vấp phải vòng luẩn quẩn ác tính: “Tinh giản -> phình ra -> lại tinh giản -> lại phình ra…”.
Bộ máy phình to đem đến cho chính phủ những phiền toái trở ngại trong vận hành và những tệ nạn khác. Do bị chồng chéo trùng lặp, quá nhiều tầng nấc, nhiều cơ quan hành chính làm việc gì cũng khó; chức trách không rõ ràng, có việc ai cũng làm, có việc chẳng biết nên để cho ai làm, đùn đẩy nhau, hiệu quả làm việc thấp. Nghiêm trọng hơn là do bộ máy cồng kềnh trùng lặp, chức, quyền và trách nhiệm của từng cơ quan không rõ ràng, tạo nên quyền lực bị khuyếch đại, bị lạm dụng, đến mức hiện tượng tham nhũng trong nội bộ cơ quan tồn tại ngang nhiên. Dù chống rất quyết liệt, các sự kiện quan chức lợi dụng chức vụ, tham nhũng hối lộ, dối trá vụ lợi... vẫn không ngừng diễn ra. Sự sinh sôi các hiện tượng tham nhũng này gây ảnh hưởng và tổn thất lớn cho đất nước. Mặt khác, sự phình ra của cơ cấu chính quyền và nhân viên hành chính khiến chi tiêu tài chính ngày càng lớn, chi tiêu tính theo đầu người ngày càng nhiều. Điều đó đã trở thành một nhân tố quan trọng kiềm chế sự giàu lên của xã hội. Lực lượng sản xuất xã hội phải cõng trên lưng đội ngũ quan chức ngốn tài chính như vậy khó mà “bò” đi được.
Theo Thủ tướng Chu Dung Cơ, một nguyên nhân quan trọng sinh ra thâm hụt tài chính là chi phí hành chính tăng quá mạnh. Theo thống kê của Bộ Tài chính, chi phí mỗi năm cho bộ máy chính quyền và nhân viên hành chính chiếm tới trên 30% tổng chi phí tài chính. Như vậy vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội sẽ giảm rất mạnh. Một thượng tầng kiến trúc đồ sộ như vậy, tất yếu sẽ đè sập cơ sở kinh tế mỏng yếu. Thời kinh tế kế hoạch, một khi kinh tế phát triển lại đòi hỏi tăng thêm bộ máy và nhân viên quản lý kinh tế, làm cho bộ máy phình ra, bộ máy phình ra tất yếu kiềm chế sức sống của kinh tế. Trong hoạt động kinh tế thị trường, dù là cá nhân hay là đơn vị doanh nghiệp cũng đều phải gắng sức giảm giá thành, tăng lợi nhuận mức cao nhất. Nhưng trong hoạt động của chính phủ lại không có động cơ như vậy, vẫn duy trì nguồn thu nhập chính phủ, chẳng liên quan gì đến giá thành thu nhập này cả, năng suất thấp vẫn được khuyến khích.
Vào thời điểm cải cách và phát triển đã bước vào giai đoạn mới, chính phủ phải đối mặt với nhiều vấn đề mới. Một mặt, thể chế kinh tế thị trường XHCN đã từng bước được xây dựng, giao lưu hội nhập quốc tế về kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa… không ngừng mở rộng, công cuộc xây dựng hiện đại hóa tiến triển nhanh chóng. Mặt khác, doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ tương đối nhiều, nhân viên mất việc và thất nghiệp tăng, mâu thuẫn xã hội tăng theo, không thể coi thường. Cơ sở nông nghiệp vẫn mỏng yếu, chênh lêch thành thị, nông thôn, công nhân, nông dân vẫn rất lớn. Đầu tư mù quáng và chồng chéo tạo thành nợ xấu, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về tài chính. Trong tình hình đó, bắt buộc phải đẩy nhanh cải cách bộ máy chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ ổn định xã hội. Cải cách bộ máy được coi là “một cuộc cách mạng”. Cải cách không thể không trở ngại và rủi ro, nhưng tình thế bắt buộc, không làm là không có lối thoát. Thậm chí còn gọi đây là “bối thủy chi chiến” (trận chiến quay lưng ra bờ sông, không có chỗ lùi). Thủ tướng Chu Dung Cơ tuyên bố: “Bất chấp phía trước là bãi mìn và vực thẳm, Chu Dung Cơ tôi vẫn tiến lên, việc nghĩa không thể lùi bước”.
II.2. Mục tiêu và nguyên tắc của cải cách:
Mục tiêu: Xây dựng một hệ thống quản lý hành chính làm việc hiệu quả cao, vận hành hài hòa, hành vi chuẩn mực, hoàn thiện chế độ viên chức, xây dựng đội ngũ quản lý hành chính chuyên môn hóa có chất lượng cao, từng bước thành lập một thể chế quản lý hành chính mang đặc sắc Trung Quốc, thích ứng với thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Nguyên tắc của cải cách:
- Chuyển đổi chức năng chính phủ, thực hiện chính phủ tách khỏi doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN. Phải thiết thực chuyển chức năng chính phủ sang điều tiết vĩ mô, quản lý xã hội và dịch vụ công, thực sự giao quyền sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức của chính quyền, thực hành tinh binh giản chính theo nguyên tắc tinh giản, thống nhất, hiệu quả. Tăng cường các bộ ngành điều hành vĩ mô, điều chỉnh và giảm thiểu các bộ ngành kinh tế chuyên môn, điều chỉnh thích ứng các bộ ngành dịch vụ xã hội, tăng cường các bộ ngành quản lý giám sát chấp pháp, phát triển các tổ chức xã hội trung gian.
- Điều chỉnh quyền hạn chức trách các bộ ngành chính phủ theo nguyên tắc gắn chặt giữa quyền hạn và trách nhiệm. Phân công rõ ràng rành mạch chức năng giữa các bộ ngành, chức năng giống nhau hoặc gần giống nhau giao cho một bộ đảm nhiệm, khắc phục tình trạng nhiều đầu mối quản lý một việc, nhiều đầu mối cùng ra lệnh.
- Thực hiện hành chính theo pháp luật, tăng cường xây dựng pháp chế hệ thống hành chính theo yêu cầu quản lý đất nước theo pháp luật.
Từ mục tiêu và những nguyên tắc trên, Quốc hội đã thông qua phương án cụ thể là giảm từ 40 bộ và ủy ban (ngoài văn phòng Quốc vụ viện) xuống còn 29 bộ và ủy ban. Chia làm 4 nhóm: (1) Nhóm các bộ điều hành vĩ mô; (2) Nhóm các bộ quản lý kinh tế chuyên ngành; (3) Nhóm các bộ ngành giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hoá, bảo hiểm xã hội, quản lý tài nguyên; (4) Nhóm các bộ ngành chính trị quốc gia.
II.3. Tổ chức thực hiện
Phương án cải cách cơ cấu Quốc vụ viện đề ra vừa tính đến yêu cầu của cải cách và phát triển, cũng phải tính đến khả năng chịu đựng của xã hội. Bởi thế phương án vẫn có tính quá độ. Về mức độ cải cách, có nhiều tranh luận. Có ý kiến cho rằng, cải cách nên bước dài một chút, cố hết sức một bước đến nơi, thiết lập thể chế hành chính thích ứng với kinh tế thị trường. Một số ý kiến khác lại cho rằng, trọng điểm của cải cách là doanh nghiệp nhà nước, nhiệm vụ rất nặng nề, công nhân viên chức mất việc nhiều, độ khó cao, cải cách không thể bước quá dài. Chủ tịch Giang Trạch Dân nêu phương châm “vừa tích cực vừa ổn thỏa”, nghĩa là vừa phải mạnh tay vừa phải mềm dẻo thỏa đáng, trong quá trình lập phương án cải cách, luôn chú ý cả 2 mặt này.
Thứ nhất, kiên trì phương châm vừa tích cực vừa ổn thoả. Đây là cuộc cải cách thay đổi cơ cấu nhiều nhất, điều chỉnh nhân viên nhiều nhất kể từ cải cách mở cửa, nên trong việc tổ chức thực hiện phải chú ý bố trí tổng thể giữa cải cách bộ máy với thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giữ ổn định chính trị xã hội, không gây “sốc”. Ngay sau khi phương án được thông qua, các cơ quan mới thiết lập phải nhanh chóng treo biển làm việc, công việc điều chỉnh nội bộ cũng phải tiến hành nhanh chóng. Phương án “ba định” (định chức năng, định cơ cấu, định biên chế) của các bộ của Quốc vụ viện phải thực hiện xong trong vòng nửa năm, công việc hành chính cơ quan đi vào trật tự vận hành mới. Sau khi cải cách cơ cấu Quốc vụ viện, sẽ tiến hành cải cách cơ cấu chính quyền các cấp địa phương. Phương án “ba định” cấp tỉnh hoàn thành sau một năm. Các địa phương làm theo sự bố trí thống nhất của Quốc vụ viện. Phải thiết thực tăng cường lãnh đạo, làm việc kiên nhẫn tỉ mỉ, tư tưởng không phân tán, trật tự không lộn xộn, nhân viên được bố trí thoả đáng, tài sản Nhà nước không được để thất thoát, công tác phải vận hành bình thường.
Thứ hai, làm tốt công tác “phân luồng nhân viên”, nâng cao trình độ đội ngũ viên chức và nhân viên công tác cơ sở. Phân luồng nhân viên tức bố trí lại công việc cho nhân viên, giải quyết công ăn việc làm cho số nhân viên dư thừa. Tinh binh giản chính, phân luồng nhân viên là những việc khó của các cuộc cải cách cơ cấu. Mục tiêu của cải cách lần này là giảm tổng số biên chế cán bộ cơ quan xuống 50%. Công tác giảm biên chế nhân viên trong cơ quan Quốc vụ viện yêu cầu phải hoàn thành trong một năm. Nhưng công tác phân luồng nhân viên dự định phải mất 3 năm. Nhân viên công tác cơ quan có trình độ văn hoá tương đối cao, hiểu biết chính sách phương châm, là tài sản quý báu của nước nhà, cần phải bố trí thoả đáng, phát huy đầy đủ vai trò của họ. Phương pháp cơ bản phân luồng nhân viên là: phân luồng giữ nguyên chức, đào tạo có định hướng, tăng cường cho doanh nghiệp, tối ưu hoá cơ cấu. Phân luồng giữ nguyên chức nghĩa là sau khi định biên xong, số cán bộ dư thừa rời khỏi cơ quan vẫn giữ nguyên chức. Đào tạo có định hướng nghĩa là đào tạo chính quy kiến thức các mặt như kế toán, kiểm toán, pháp luật, quản lý kinh tế, quản lý giáo dục v.v... nhằm chuẩn bị cho vị trí công tác mới. Tăng cường cho doanh nghiệp nghĩa là chọn những nhân viên sau khi đã đào tạo có định hướng, trước hết là bổ sung cho các doanh nghiệp công thương, doanh nghiệp tài chính tiền tệ, sau nữa là các cơ quan chấp pháp như tài chính thuế vụ, chính pháp, quản lý thị trường, các đơn vị văn hóa, giáo dục, y tế và tổ chức xã hội thích ứng với phát triển kinh tế thị trường. Tối ưu hóa cơ cấu nghĩa là thông qua việc phân luồng nhân viên, điều chỉnh cơ cấu tuổi tác, cơ cấu tri thức và cơ cấu chuyên ngành của nhân viên chính quyền và doanh nghiệp, cơ quan và cơ sở, đạt được tổ hợp tối ưu, nâng cao toàn diện chất lượng tổng thể của đội ngũ công chức và nhân viên cơ sở. Đơn vị sự nghiệp có số lượng lớn, nhiệm vụ cải cách khối này rất nặng nề, ngoài các đơn vị giáo dục và một số rất ít đơn vị khác yêu cầu phải cấp tài chính ra, các đơn vị sự nghiệp còn lại mỗi năm giảm tài chính 1/3, cố gắng trong 3 năm cơ bản tự túc được.
Thứ ba, chuyển đổi chức năng chính phủ một cách nghiêm túc, cải tiến tác phong làm việc, nâng cao hiệu quả công tác. Đây là tiêu chí quan trọng đối với hiệu quả của cải cách cơ cấu. Bất kể bộ ngành mới thành lập hay bộ ngành được giữ lại, sau cải cách cơ cấu, trách nhiệm công tác không hề giảm nhẹ mà còn nặng hơn, phải căn cứ yêu cầu mới, nâng cao khả năng làm việc theo pháp luật, thực hiện chức trách của cơ quan nhà nước. Phải hoàn thiện thêm một bước chế độ vận hành hành chính, tăng cường chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, quy phạm hóa chức quyền của người lãnh đạo, chống đùn đẩy nhau, kỷ luật hành chính nghiêm khắc, giám sát những hành vi tắc trách. Các bộ mới thành lập cũng như các bộ bị điều chỉnh lớn phải nhanh chóng xử lý quan hệ chức năng, đảm bảo vận hành bình thường. Tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ theo tiêu chuẩn có đức có tài, ban lãnh đạo phải làm tốt công tác tự xây dựng mình, tăng cường đoàn kết nội bộ. Tất cả nhân viên công tác chính quyền đều phải nỗ lực học tập, cần cù liêm chính, khắc khổ công tác thành những công chức được nhân dân hài lòng.
Thứ tư, tăng cường xây dựng pháp chế của hệ thống tổ chức hành chính. Tăng cường và hoàn thiện lập pháp hành chính trên cơ sở đã cải cách cơ cấu, tinh binh giản chính. Kiến nghị sửa đổi “Luật tổ chức Quốc vụ viện”, quy phạm hoá theo pháp luật việc bố trí các bộ ngành của Quốc vụ viện. Kiến nghị sửa đổi “Luật tổ chức địa phương” khi thích hợp, làm rõ hơn những chuẩn mực về quyền hạn chức trách và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương. Trên cơ sở “ba định” của các bộ, tiến hành lập pháp tổ chức của bộ, làm rõ chức năng công tác, hoàn thiện quy trình công tác. Đẩy nhanh việc soạn thảo quy chế quản lý các tổ chức, kiểm soát cơ cấu và biên chế, thiết lập cơ chế ràng buộc.
Thứ năm, chấp hành nghiêm kỷ luật chính trị, phục tùng đại cục cải cách. Cải cách cơ cấu và phân luồng nhân viên đụng chạm đến toàn cục cải cách, phát triển và ổn định, đụng chạm đến quyền lực của các bộ ngành và lợi ích thiết thân của cán bộ, cần phải nhấn mạnh việc xem xét toàn cục. Cán bộ các cấp, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo cần phải phục tùng sự bố trí của tổ chức, nhìn nhận đúng đắn sự thay đổi cương vị công tác cá nhân.[3] Việc nghiên cứu và soạn thảo phương án cải cách đã tính đến ý kiến các mặt, khi phương án được phê chuẩn là phải kiên quyết chấp hành, phải đồng tâm hiệp lực, tranh thủ thực hiện thuận lợi cải cách cơ cấu chính phủ.
Thứ sáu, tháng 4/1999, Trung Quốc ban hành lệnh cấm triệt để quân đội, công an, cảnh sát vũ trang tiến hành các hoạt động kinh doanh, lập doanh nghiệp; cấm tất cả các thương phẩm ngoài thị trường mang nhãn hiệu “quân đội”, “quốc phòng”, “Bát nhất” cũng như phiên hiệu các nhà máy (cũ) của quân đội. Mục đích là “bảo vệ lợi ích công và giữ trật tự của kinh tế thị trường”.[4] Quân đội, công an, cảnh sát vũ trang là công cụ chuyên chính vô sản, không được lợi dụng đặc quyền hành chính để tham gia cạnh tranh thị trường.
III. Một số kinh nghiệm chủ yếu Việt Nam có thể tham khảo
Tổng kết tất cả 7 cuộc cải cách cơ cấu chính phủ của Trung Quốc kể từ cải cách mở cửa đến nay, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu mà Việt Nam có thể tham khảo như sau:
Thứ nhất, kiên trì lấy chuyển đổi chức năng chính phủ làm then chốt cho cải cách cơ cấu. Cơ cấu và chức năng có liên quan chặt chẽ với nhau, dựa vào nhau để tồn tại, chỉ có trên cơ sở vạch rõ phạm vi nghiệp vụ thì mới có thể tinh giản bộ máy và nhân viên một cách hiệu quả. Trong “ba định”, trước hết là định rõ chức năng, tiếp theo là định rõ cơ cấu (bộ máy). Nếu chưa định rõ chức năng là chưa thể định cơ cấu, lại càng không thể định biên chế được. Không thể giảm biên một cách mù quáng khi chưa xác định được chức năng và cơ cấu. Các cuộc cải cách ban đầu của Trung Quốc trước đó sở dĩ hiệu quả không cao, vì vấn đề nằm ở thể chế kinh tế kế hoạch. Quyền lực hành chính từ vĩ mô đến vi mô, từ hoạt động kinh tế đến hành vi xã hội, từ đơn vị đến cá nhân, từ sinh lão bệnh tử đến ăn ở đi lại, có thể nói là chẳng có gì không quản lý. Mô hình quản lý toàn năng này làm cho cải cách cơ cấu không thể tinh giản hiệu quả được, càng giảm càng phình ra. Kể từ khi xác định mục tiêu thể chế kinh tế thị trường, cải cách cơ cấu càng nhấn mạnh chức năng chính phủ phải thích ứng với nhu cầu phát triển kinh tế thị trường, càng phải làm rõ hơn quyền hạn quản lý và phạm vi công tác của các bộ, các ngành, kết hợp chặt chẽ giữa cải cách cơ cấu với chuyển đổi chức năng và xử lý tốt các mối quan hệ. Chính là thông qua việc thu nhỏ phạm vi quản hạt của chính phủ, giảm bớt quyền của chính phủ là đã thực hiện tinh giản cơ cấu chính phủ, đặc biệt là phải tinh giản các bộ kinh tế chuyên trách công nghiệp (vì các bộ này là con đẻ của thể chế kinh tế kế hoạch). Thực tiễn đã chứng minh, cải cách cơ cấu phải nắm chắc cái chìa khóa làm rõ chức năng chính phủ và chuyển đổi chức năng chính phủ, làm rõ chức năng từng bộ ngành, như thế mới đạt được mục đích cải cách. Đây là then chốt thành công của cải cách cơ cấu.
Thứ hai, kiên trì nguyên tắc vừa tích cực vừa ổn thỏa. Cải cách cơ cấu là sự điều chỉnh lớn các loại lợi ích và quyền lực, đụng chạm nhiều mặt, mâu thuẫn nhiều, độ khó khăn cao, động đến lợi ích rất nhiều người, nhiều nhóm người. Thể chế chính phủ từ lúc khai sinh được thiết lập trên cơ sở kinh tế kế hoạch lâu dài, mọi mặt cuộc sống xã hội đều quy vào kế hoạch, đều do chính phủ quản lý, bộ máy cồng kềnh, phình to. Cùng với việc nhận thức được tính bức thiết, tính cần thiết của cải cách cơ cấu, cũng phải nhận thức được tính phức tạp, tính gian nan của nó. Chính vì tính đến tính phức tạp của cải cách, cải cách cơ cấu luôn kiên trì kiểu đánh vu hồi, không đánh vỗ mặt. Đối với những vấn đề nhạy cảm như tinh giản cơ cấu, phân luồng nhân viên, vừa chủ động tích cực, tập trung giải quyết những vấn đề nổi cộm, lại vừa luôn kiên trì cải cách theo kế hoạch, chia lộ trình, chia giai đoạn, làm từng bước, vừa làm vừa thăm dò sức chịu đựng của xã hội; vừa từng bước tinh giản bộ máy, lại vừa bố trí nhân viên dư thừa của các cơ quan một cách ổn thỏa, tức là vừa tích cực vừa ổn thỏa.
Thứ ba, phải hoàn thiện các quy chế luật pháp tương quan, cải cách đúng luật. Cải cách là điều chỉnh cục diện lợi ích, bất kỳ cuộc cải cách nào cũng có độ rủi ro, cải cách chính phủ rủi ro càng lớn. Nếu không có sự đảm bảo về luật pháp và quy chế tương ứng, thì rất nhiều cuộc cải cách không thể tiến hành. Bởi vậy, cải cách cơ cấu phải được đặt trên nền tảng của luật pháp và quy chế tương quan, làm theo luật pháp. Với sự tích lũy kinh nghiệm cải cách, Trung Quốc đã từng bước nhận thức được tầm quan trọng của lập pháp hành chính, kết hợp giữa cải cách cơ cấu với tăng cường xây dựng pháp chế hệ thống hành chính, đã cơ bản thực hiện luật pháp hóa cơ cấu tổ chức, chức năng, biên chế, quy trình làm việc. Trung Quốc đã lần lượt cho ra đời một loạt quy chế, luật pháp như “Luật tổ chức Quốc vụ viện”, “Điều lệ về lập bộ máy chính quyền và quản lý biên chế địa phương các cấp”, “Điều lệ về lập bộ máy hành chính và quản lý biên chế Quốc vụ viện” v.v… đảm bảo về chế độ cho cải cách cơ cấu tiến hành thuận lợi, ngăn ngừa một cách hiệu quả bộ máy tiếp tục phình ra. Thông qua việc hoàn thiện pháp luật tương quan để bảo đảm và củng cố thành quả của cải cách cơ cấu đã thành nhận thức chung trong cải cách của Trung Quốc.
Thứ tư, phải phối hợp đồng bộ giữa cải cách cơ cấu với các cải cách khác. Theo kinh nghiệm lịch sử, bất kỳ cuộc cải cách đơn lẻ nào cũng đều không thể thành công, phải tiến hành cải cách đồng bộ với các lĩnh vực khác mới có thể đạt được hiệu quả mong đợi. Một là cải cách cơ cấu đồng bộ với giải phóng tư tưởng. Một cuộc biến đổi lớn tất yếu phải đi đôi với đổi mới về quan niệm, không đổi mới quan niệm cải cách sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Chuyển đổi chức năng chính phủ, xóa cơ quan này, nhập cơ quan kia, phân luồng nhân viên… một mặt phải phá bỏ sự ràng buộc về tư tưởng bởi văn hoá chuyên chế phong kiến cũ và mô hình thể chế XHCN truyền thống, mặt khác phải bằng tâm thái bình tĩnh bao dung xem xét lại chế độ tiên tiến của các nước tư bản phát triển, vừa dám đột phá truyền thống, lại giỏi tiếp thu học hỏi. Không ngừng đổi mới quan niệm chính là sự bảo đảm về tư tưởng cho cải cách cơ cấu chính phủ. Hai là, cải cách cơ cấu phối hợp đồng bộ với hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường XHCN. Hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường XHCN đã thành quốc sách, mà muốn hoàn thiện và phát triển hơn nữa, chính phủ cần phải tự cải cách bản thân mình, từ đó tạo điều kiện cho hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường XHCN. Nhìn dọc quá trình cải cách của Trung Quốc, dù là tinh giản bộ máy hay điều chỉnh nhân viên đều luôn phục tùng nhu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN. Đồng thời đặt lên hàng đầu việc chuyển đổi chức năng chính phủ, thúc đẩy việc tách rời chính quyền và doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp có quyền tự chủ thật sự, hơn nữa phải đi vào chiều sâu cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường XHCN. Ba là, cải cách cơ cấu phối hợp đồng bộ với cải cách chế độ cán bộ nhân sự. Một mặt quan trọng của cải cách cơ cấu chính phủ Trung Quốc là đã thay đổi một cách căn bản chế độ nhân sự truyền thống. Trong đó một tiêu chuẩn quan trọng là thiết lập được chế độ công chức nhà nước. Chất lượng nhân viên hành chính nhà nước đã được đảm bảo, công việc ngày càng chế độ hóa, hiệu quả hành chính nâng lên rõ rệt, đã giảm thiểu trở lực cải cách, đảm bảo cải cách tiến hành thuận lợi. Bốn là, cải cách cơ cấu phối hợp đồng bộ với hoàn thiện năng lực tự trị xã hội. Trên thực tế, cải cách cơ cấu là một quá trình không ngừng chuyển quyền cho xã hội, thông qua một số tổ chức xã hội nào đó đảm nhiệm một phần sự việc công, có tác dụng thúc đẩy và tăng tốc cải cách cơ cấu. Cần phải căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội, coi trọng việc bồi dưỡng các tổ chức xã hội, tạo cơ sở xã hội cho chuyển đổi toàn diện mô hình chính phủ.
Thứ năm, cải cách cơ cấu phải xuất phát từ tình hình nước mình, tùy nơi mà áp dụng, hình thức đa dạng. Đồng thời với việc tham khảo những cách làm thành công của nước ngoài, cần phải tất cả xuất phát từ tình hình nước mình, tính toán cân nhắc, tiến hành từng bước. Nếu cứ bê nguyên kinh nghiệm nước khác, mô hình nước khác vào là khó thành công. Một nước kém phát triển đang trong thời kỳ chuyển đổi mô hình xã hội toàn diện, nếu cải cách cơ cấu cứ đơn giản bê nguyên tiêu chuẩn bộ máy chính phủ của nước ngoài, vội vội vàng vàng giản hóa quyền lực, không những không đạt được mục tiêu cải cách như mong muốn mà còn rất dễ tạo nên rối loạn cuộc sống xã hội. Bởi vậy, tình hình đặc thù của nước nào quyết định cải cách cơ cấu nước đó, không nên và trên thực tế cũng không thể bê nguyên mô hình hành chính phương Tây. Đồng thời cũng phải căn cứ vào tình hình thực tế của từng địa phương như miền Đông, miền Tây, miền núi miền đồng bằng v.v... trình độ phát triển kinh tế, môi trường chính trị xã hội vĩ mô, yêu cầu thực tế của dân chúng khác nhau, phải vừa tích cực chủ động lại vừa thực sự cầu thị tìm tòi con đường cải cách phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Cơ cấu của một tỉnh miền núi không thể giống hoàn toàn một tỉnh miền xuôi. Về lộ trình cải cách cụ thể, tùy nơi mà vận dụng, hình thức đa dạng. Bên cạnh đó, mở cửa đối ngoại và hội nhập quốc tế không thể không coi trọng tiếp thu và học tập kinh nghiệm của nước ngoài, phải dám tiếp thu và biết tiếp thu. Chúng ta không thể bê nguyên mô hình và kinh nghiệm của phương Tây, nhưng một số kinh nghiệm và cách làm trong quá trình hoàn thiện thể chế quản lý hành chính của các nước phát triển đáng được coi trọng, đặc biệt là phương pháp khoa học về quản lý của các nước này. Trên thực tế, mấy năm qua, một số biện pháp cải cách mà chính phủ Trung Quốc tiến hành như chế độ phản biện, phục vụ một cửa, chế độ cam kết phục vụ của chính phủ v.v… lúc đầu là học tập của nước ngoài, sau đó phát triển thêm.
Thứ sáu, phải công khai hóa chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các bộ ngành Trung ương và chính quyền các cấp địa phương. Muốn tăng cường trách nhiệm, hiệu quả làm việc, mức độ liêm khiết của bộ máy chính quyền, cần phải có sự giám sát của công chúng. Không thể giám sát quyền lực khi không rõ phạm vi quyền lực đó. Bởi vậy, Trung Quốc thường công bố rõ ràng chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các bộ ngành và địa phương. Hình thức là xuất bản sách, website công bố các nội dung: chức năng, cơ cấu, biên chế, lãnh đạo v.v... của từng bộ và từng đơn vị trong mỗi bộ[5]. Gần đây các học giả Trung Quốc kiến nghị lập và công bố ba loại danh mục là danh mục quyền lực, danh mục trách nhiệm và danh mục cấm, nhằm đảm bảo quyền dân chủ, tăng cường giám sát của dân chúng hơn nữa.
Thứ bảy, thành lập cơ quan quản lý thống nhất. “Ủy ban Trung ương về biên chế cơ cấu nước CHND Trung Hoa” là cơ quan điều phối nghị sự đặt dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Quốc vụ viện. Ủy ban này phụ trách công tác cải cách thể chế và cơ cấu quản lý hành chính cũng như công tác quản lý biên chế của cả nước. Ủy ban này cũng thống nhất quản lý công tác biên chế cơ cấu của các cơ quan Đảng, cơ quan Nhân đại, Chính hiệp, Tòa án, Viện Kiểm sát, các đảng phái dân chủ, các đoàn thể nhân dân và các đơn vị sự nghiệp của cả nước. Đây vừa là cơ quan Trung ương Đảng vừa là cơ quan Chính phủ (hiện nay do Thủ tướng Lý Khắc Cường làm Chủ nhiệm và ủy viên Thường vụ BCT, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng Lưu Vân Sơn làm Phó chủ nhiệm). Văn phòng Ủy ban đặt trong Bộ Nhân sự.
Trên đây là một số cách làm và kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình cải cách bộ máy chính phủ nhằm thích ứng với thể chế kinh tế thị trường XHCN mà chúng tôi tạm rút ra từ quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về Trung Quốc. Chúng tôi cho rằng đây là những kinh nghiệm rất đáng để chúng ta tham khảo trong bối cảnh hiện nay./.
[1] Trong tiếng Trung Quốc, “Chính phủ” chỉ chính quyền từ cấp Trung ương (Quốc vụ viện) đến cấp xã; “Nhân đại” là cơ quan đại biểu nhân dân, Nhân đại toàn quốc tương đương Quốc hội, nhân đại các cấp tương đương Hội đồng nhân dân.
[2] Trong thể chế kinh tế thị trường XHCN ra đời năm 1992, thị trường đóng vai trò cơ sở trong phân bố tài nguyên, đến Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII (2013), điều chỉnh lại, coi thị trường đóng vai trò quyết định.
[3] Nhiều trường hợp cán bộ lãnh đạo thay đổi vị trí thấp hơn về danh nghĩa. Điển hình như ông Ngũ Thiệu Tổ, quân hàm Thiếu tướng, nguyên Chủ tịch Ủy ban Thể thao Quốc gia (UBTT), người được dân chúng coi là vị anh hùng có công củng cố nền thể thao nước nhà. Sau cuộc cải cách này, vì giải thể UBTT, lập Tổng cục TT, ông phải vui vẻ nhậm chức mới - Tổng cục trưởng.
[4] Theo “Luật Công chức” Trung Quốc, tất cả công chức không được phép tham gia các hoạt động kinh doanh kiếm lợi nhuận.
[5] Ví dụ cụ thể: Bộ Văn hóa có 13 chức trách cụ thể; trong Bộ có 11 đơn vị cấp Vụ; biên chế 327 người, bao gồm 01 Bộ trưởng, 04 Thứ trưởng, 44 cán bộ lãnh đạo cấp Cục Vụ (kể cả 01 trợ lý Bộ trưởng, 01 Phó Bí thư đảng ủy chuyên trách, 03 người phụ trách Cục cán bộ hưu trí). Bộ máy đó của Bộ Văn hóa coi như luật định, nếu làm sai là vi phạm pháp luật.
Xem thêm
|
40 năm quan hệ Việt Nam-Liên Hợp Quốc: Một lời hẹn ước (Chinhphu.vn) - Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập Liên Hợp Quốc (LHQ), đến nay vừa tròn 40 năm. Chặng đường này đã ghi nhận sự hợp tác sâu rộng và hiệu quả giữa Việt Nam và tổ chức quốc tế lớn nhất và quan trọng nhất của thế giới hiện đại.
Duyên phận
Năm 1945-1946, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư tới các nhà lãnh đạo những nước sáng lập LHQ bày tỏ ý nguyện Việt Nam sẵn sàng hợp tác với LHQ, đề cao Hiến chương LHQ và yêu cầu tổ chức này “thực hiện lời hứa long trọng của mình là tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập”...
Cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân Việt Nam, với thắng lợi vĩ đại Điện Biên Phủ năm 1954, đã góp phần thức tỉnh các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân nô dịch, kích hoạt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới giữa thế kỷ 20. Việc LHQ thông qua Nghị quyết 1514 ngày 14/12/1960 trao trả độc lập cho các nước thuộc địa có sự đóng góp bằng xương máu của nhân dân Việt Nam.
Nằm trong ý tưởng của những nước lớn thành viên sáng lập, LHQ là một tổ chức quốc tế đa phương, một kiến trúc an ninh tập thể nhằm duy trì trật tự thế giới hình thành từ thành quả tiến bộ sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hiến chương LHQ đề ra các nguyên tắc cơ bản, các giá trị cốt lõi về tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết hoà bình tranh chấp, không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực, thúc đẩy tiến bộ xã hội...
LHQ đã chứng tỏ là một diễn đàn quan trọng để các nước vừa và nhỏ bảo vệ các quyền cơ bản được ghi trong Hiến chương. Các cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc đã góp phần có ý nghĩa củng cố những giá trị ấy.
Hai giai đoạn hợp tác chủ yếu
Trong 40 năm qua, LHQ luôn đồng hành cùng Việt Nam trên các chặng đường xây dựng và phát triển. Quan hệ Việt Nam-LHQ trải qua hai thời kỳ chủ yếu: Từ năm 1977 đến cuối những năm 1980 và từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới đến ngày nay.
Trong giai đoạn đầu, Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh, lại vướng vào các cuộc xung đột với các nước láng giềng và chịu sự bao vây cấm vận, LHQ là một trong các cửa ngõ quan trọng để Việt Nam tiếp cận với thế giới.
Đây là một giai đoạn hết sức khó khăn. Đại hội đồng LHQ khóa 32 (1977) đã thông qua Nghị quyết kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh.
Sự hỗ trợ quý báu của các tổ chức LHQ, đặc biệt là Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Cao ủy LHQ về người tị nạn (UNHCR), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)… đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội, hội nhập vào các cơ chế đa phương của thế giới. Điều quan trọng, Việt Nam đã vận dụng các diễn đàn quốc tế để đấu tranh và vượt qua sự chống phá của các thế lực thù địch.
Trong giai đoạn Đổi mới của Việt Nam, sự hợp tác giữa Việt Nam và LHQ không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực, thông qua các hoạt động tư vấn chính sách, trợ giúp kỹ thuật, các chương trình, dự án hỗn hợp song phương, đa phương, và huy động được nguồn vốn quan trọng từ các nước tài trợ và các tổ chức tài chính quốc tế.
Bằng nội lực và sự hợp tác quốc tế hiệu quả, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực và có trách nhiệm, tham gia ngày càng chủ động và có hiệu quả vào nhiều lĩnh vực hoạt động của LHQ.
Nước ta đã tích cực tham gia Sáng kiến “Thống nhất hành động”; triển khai thành công Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ. Các nhà ngoại giao và cán bộ chuyên môn các ban ngành của Việt Nam ngày càng trưởng thành, tham gia lão luyện vào các “sân chơi” của các cơ chế của LHQ, như Hội đồng Bảo an LHQ, Hội đồng Kinh tế-xã hội, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Chấp hành UNESCO, Ủy ban Luật pháp quốc tế.
Với việc Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, hợp tác giữa Việt Nam và LHQ chuyển trọng tâm từ hỗ trợ kỹ thuật sang tư vấn chính sách thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, tập trung vào các lĩnh vực như xoá đói giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng thể chế, bình đẳng giới...
Đồng thời, phù hợp với các giá trị cốt lõi của đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nước ta đã đi đầu trong việc thúc đẩy thực thi các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ vì sự tiến bộ của nhân loại; đấu tranh bảo vệ các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982…
Để đưa quan hệ Việt Nam-LHQ lên một tầng nấc mới, chúng ta cần tăng cường thực lực quốc gia. Như Chủ tịch Hồ Chí minh từng nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to, tiếng mới lớn”.
Thực hiện cuộc đổi mới 2:0, vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” theo các tiêu chí của LHQ, Việt Nam sẽ có điều kiện đóng góp tích cực và hiệu quả hơn nữa cho hoạt động của LHQ, thông qua đó tối ưu hóa lợi ích quốc gia, đồng thời nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp vào sự tiến bộ của tổ chức quốc tế đa phương quan trọng nhất hiện nay.
TS. Nguyễn Ngọc Trường
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và phát triển quốc tế
Xem thêm
|