(ĐCSVN) - Kết thúc chuyến thăm cấp nhà nước tới Trung Quốc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm từ ngày 18 - 20/8/2024, hai bên đã ra “Tuyên bố chung giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, thúc đẩy xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc”.
Xem thêm
|
Ngày 20/7/2024, Cố vấn cao cấp CSSD Nguyễn Vinh Quang trả lời phỏng vấn báo Người đưa tin, chia sẻ cảm nhận về đóng góp to lớn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Được sự đồng ý của Cố vấn Nguyễn Vinh Quang, CSSD xin đăng lại bài phỏng vấn.
Xem thêm
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Trao đổi với Tri thứ trẻ, Nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ Phạm Quang Vinh nhấn manh, trước đây tổng thống hay phó tổng thống Mỹ đến châu Á-Thái Bình Dương, thường phải đến đồng minh lớn của Mỹ trước, chứ chưa đến riêng Đông Nam Á mà lại ngay đầu nhiệm kỳ.
Xem thêm
|
|
|
|
|
|
|
|
"Ngoại giao chiến lang" góp phần tạo nên hình ảnh một Trung Quốc hung dữ, ít gây được thiện cảm, càng làm củng cố thuyết "mối đe dọa của Trung Quốc".
Xem thêm
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngày 29/9/2020 trên Đài Truyền hình VTC, Cố vấn cao cấp Phạm Quang Vinh tham gia bình luận về cuộc tranh luận đầu tiên giữa hai ứng viên tổng thống Mỹ Donald Trump và Joe Biden.
Xin mời quý vị quan tâm xem lại chương trình tại đường dẫn: https://www.youtube.com/watch?v=btoDk23E4VM
Xem thêm
|
Ngày 22/7/2020, Chủ tịch Nguyễn Mạnh Hùng và các cố vấn CSSD đã tọa đàm với ngài Đại sứ Pranay Verma cùng một số quan chức sứ quán Ấn Độ tại Việt Nam, Tiến sỹ Chamarthi V. Sastry (Tham tán Chính trị), ông Sushil Prasad (Bí thư thứ nhất) và bà Hoàng Mai Nhung.
Hai bên trao đổi về tình hình quốc tế, khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương, chính sách đối ngoại của Ấn Độ và một số vấn đề khác cùng quan tâm./.
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
Xem thêm
|
Trong nhiệm kì Đại sứ Việt Nam tại Mỹ từ tháng 11/2014 đến tháng 6/2018, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Vinh may mắn được tham gia, chứng kiến nhiều dấu mốc quan trọng mà ông không bao giờ quên...
Xem thêm
|
Quan hệ Việt - Mỹ vượt qua thương đau của chiến tranh để hợp tác “trên cả đối tác toàn diện” là điều mà người trong cuộc khó có thể nghĩ tới, theo cựu đại sứ Việt Nam tại Mỹ.
Xem thêm
|
(VNF) – Theo nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, ông Phạm Quang Vinh, quan hệ Việt – Mỹ trong 25 năm qua đã có những bước tiến dài, vượt trên kì vọng. Đến nay, nhìn lại, phải dùng hai chữ “thần kì” để đánh giá về quan hệ hai nước.
LTS: Cách đây 25 năm, Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt đã chính thức tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao (11/7/1995 - 11/7/2020).
Đây là kết quả của một hành trình dài với những nỗ lực bền bỉ của cả hai bên, có ý nghĩa đặc biệt, gác lại quá khứ và mở ra một chương mới trong lịch sử hai nước.
Nhân kỉ niệm 25 năm ngày bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Mỹ, VietnamFinance trân trọng gửi tới quý độc giả loạt bài viết nhằm: gợi nhắc các dấu ấn quan trọng trong tiến trình bình thường hóa, những đánh giá về quan hệ hai nước trong chặng đường một phần tư thế kỉ và dự báo triển vọng cho tương lai.
Bài đầu tiên là cuộc trao đổi với ông Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ giai đoạn 2014 – 2018:
Xem thêm
|
“Đà quan hệ Việt – Mỹ trong 25 năm qua dựa trên sự hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và chia sẻ lợi ích. Những điều đó không chỉ diễn ra trong những vấn đề song trùng mà còn ở những vấn đề khác biệt. Điều này chắc chắn sẽ tạo điều kiện cho quan hệ Việt – Mỹ phát triển hơn trong tương lai”, ông Phạm Quang Vình, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ nói.
Nhân dịp kỷ niệm 25 năm quan hệ Việt Nam – Mỹ, ông Phạm Quang Vình, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ trong nhiệm kì 2014 – 2018 đã chia sẻ với phóng viên Một Thế Giới nhiều cảm nhận lạc quan về mối quan hệ giữa 2 nước hiện tại và tương lai.
Xem thêm
|
Ngày 01/7/2020, Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Phát triển quan hệ quốc tế (CSSD) phối hợp với Viện nghiên cứu Châu Mỹ (VIAS), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo quốc tế “Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ: 25 năm hợp tác và phát triển” nhân kỷ niệm 25 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ (11/7/1995 – 11/7/2020).
Xem thêm
|
|
|
|
Ngày 8/6/2020, Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quan hệ quốc tế (CSSD) có bài viết "Cuộc khủng hoảng mang tên chủng tộc và vết thương chưa lành của nước Mỹ" đăng trên báo điện tử Vietnamnet. Chúng tôi xin trích dẫn nội dung bài viết.
Xem thêm
|
Ngày 11/6/2020, ông Nguyễn Vinh Quang, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quan hệ quốc tế (CSSD) trả lời phỏng vấn của Tạp chí Tri Thức Trẻ. Chúng tôi xin trích dẫn lại nội dung trả lời phỏng vấn của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang.
Xem thêm
|
|
|
|
|
Ngày 06/10/2019, Cố vấn cao cấp CSSD Nguyễn Trường Giang tham gia Tọa đàm khoa học: “Vùng biển Bãi Tư Chính và luật pháp quốc tế” tại Hà Nội. Chúng tôi xin trích dẫn bài đăng trên báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam.
Xem thêm
|
|
|
Báo Đất Việt - Theo TS Nguyễn Ngọc Trường, phản ứng của Việt Nam với vấn đề Biển Đông cho thấy sự thận trọng, kết hợp nhiều giải pháp.
Xem thêm
|
Mới đây, báo điện tử Vietnamnet.vn đăng tải bình luận của Cố vấn cao cấp CSSD Nguyễn Trường Giang, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Brunei, nguyên Viện trưởng Viện Biển Đông (Học viện Ngoại giao) về tình hình Biển Đông. Được sự đồng ý của Đại sứ Nguyễn Trường Giang, CSSD xin đăng lại nội dung bình luận:
Xem thêm
|
|
Trợ lý nghiên cứu đảm nhận việc tìm kiếm, khai thác thông tin, biên dịch, tổng hợp tài liệu liên quan đến các vấn đề chính trị thế giới, quan hệ quốc tế; quan hệ kinh tế, tài chính quốc tế...
Xem thêm
|
|
|
Cố vấn cao cấp CSSD Nguyễn Vinh Quang trả lời phỏng vấn báo Tổ Quốc về Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Triều lần hai diễn ra tại Hà Nội từ ngày 27-28/2/2019. Bài phỏng vấn đăng trên báo Tổ Quốc.
Xem thêm
|
|
(Tổ Quốc) - 17/2/2019, sau tròn 40 năm Trung Quốc đưa quân sang đánh 6 tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam, Báo điện tử Tổ Quốc xin chia sẻ bài phỏng vấn với ông Nguyễn Vinh Quang, Nguyên Vụ trưởng Vụ Trung Quốc- Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương, hiện là Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt – Trung. Ông Nguyễn Vinh Quang hiện còn là Cố vấn cao cấp Trung tâm nghiên cứu chiến lược và phát triển quốc tế.
Xem thêm
|
|
|
|
|
|
|
|
* Bài viết đăng trên Báo điện tử Chính phủ ngày 6/8/2018
Tình hình quốc tế trong hai năm qua có những chuyển biến rõ rệt. Một kỷ nguyên mới cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đã xuất hiện và có thể đang tiến vào trạng thái “chiến tranh lạnh mới”. Việt Nam cần nhận biết bản chất của những biến đổi, đẩy mạnh cải cách, nâng cao chất lượng hợp tác với các nước lớn và cộng đồng ASEAN.
Một xu hướng nổi bật là cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên các vùng biển và đại dương thế giới. Nỗ lực của Trung Quốc để trở thành cường quốc biển đã kích hoạt sự thức tỉnh mới của châu Á về biển, giục giã các quốc gia vươn ra biển cả và đại dương nhằm bảo vệ lợi ích biển của quốc gia, sử dụng biển vào các mục tiêu chính trị, kinh tế và quân sự. Một quốc gia muốn vươn ra biển cả thì cả dân tộc ấy phải có sự đam mê biển cả.
Một nhà tư tưởng lớn người Mỹ về sức mạnh biển, Alfred Mahan, đã tạo ra niềm cảm hứng cho người Trung Quốc hiện đại từ bỏ tư duy đất liền để hướng ra biển cả, xây dựng lực lượng hải quân theo những tiêu chí mà Mahan nêu lên trong tác phẩm kinh điển của ông xuất bản từ cuối thế kỷ 19 (Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660-1783, NXB Boston Little, Brown & Company, 1890). Nhưng lại buộc những người đồng hương thời nay của ông tìm cách ngăn chặn việc Trung Quốc kiểm soát Biển Đông, mở rộng tầm ảnh hưởng ra Tây Thái Bình Dương và vòng cung Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Tổng thống Mỹ Donald Trump, đại diện cho các tập đoàn lợi ích mới của nước Mỹ, đã thực hiện những điều chỉnh chính sách đối nội, đối ngoại sâu rộng nhằm khôi phục lại sức mạnh của nước Mỹ, chống lại các thế lực muốn tiếm quyền lãnh đạo toàn cầu của Mỹ.
Donald Trump đồng thời là đại diện tiêu biểu cho trào lưu dân túy chủ nghĩa nở rộ tại nhiều quốc gia trong mấy năm gần đây phản biện lại cơ chế cũ, đòi hỏi đổi mới các chính sách đối nội, đối ngoại để ứng phó với các thách thức hoặc khủng hoảng mới. Các chính sách tài chính tiền tệ, an ninh quân sự và nhập cư, đặc biệt là thương mại, của chính quyền Trump tạo ra luật chơi mới, tác động thuận nghịch đến nhiều mối quan hệ quốc tế. Các mục tiêu phi truyền thống tỏ ra khá nhất quán, nhưng đi cùng với các phát biểu thiếu nhất quán, làm cho việc dự báo chính sách đối ngoại của chính quyền Mỹ khó khăn. Nhưng tính khó dự đoán ấy lại chính là một đặc trưng của chính sách đối ngoại mang tên “Donald Trump”.
Quan hệ Trung-Mỹ đang chuyển biến về chất, bước vào giai đoạn “hợp tác khi có thể và cạnh tranh là tất yếu”. Sự chuyển biến này xuất phát từ sự phản tỉnh chiến lược của chính quyền Trump về nguy cơ Trung Quốc đối với lợi ích quốc gia của Mỹ.
Trong mối quan hệ ấy, chính quyền Trump có lẽ không chỉ muốn giảm 200 tỷ USD thâm hụt trong cán cân thương mại. Cuộc đối đầu thương mại Mỹ-Trung chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Vì lẽ, đây là cuộc đấu tranh quyền lực về quyền lãnh đạo thế giới thế kỷ 21.
Mỹ đang tìm các hướng đột phá để giữ vững quyền lãnh đạo, đồng thời chống đỡ một trật tự thế giới đang lung lay, một trật tự vốn dựa theo khuôn mẫu của Hòa ước Westphalia dựa trên cân bằng quyền lực.
Nhà chiến lược của Hoa Kỳ, Tiến sĩ Henry Kissinger đang mối lái cho sự cân bằng quyền lực 2.0 Mỹ-Nga-Trung - một cấu trúc quyền lực mà ông ta từng thành công trong những năm 1970-1980. Có điều, đối tượng và đối tác nay đã đổi vai cho nhau; môi trường mới cần một số điều kiện mới. Tổng thống Trump sẽ phải lãnh đạo nước Mỹ đạt đến sự đồng thuận cho việc cải thiện quan hệ với Nga, nới lỏng, tiến tới bỏ cấm vận do phương Tây áp đặt đối với nước Nga, giảm căng thẳng trong quan hệ NATO-Nga, để tổ chức hiệp ước quân sự này quay về đối phó với các thách thức mới trong lòng phương Tây, trong đó có việc Trung Quốc định dùng Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) đột phá một vài mắt xích tại một trong các hướng chính của BRI là châu Âu.

Ảnh: Tiến sĩ Kissinger, 93 tuổi, trong một lần tiếp xúc với nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình gần đây, mối lái cho một thiết kế quyền lực quốc tế giai đoạn mới
Cặp quan hệ Trung-Mỹ là một trụ cột của hệ thống quan hệ quốc tế đương đại. Sự chuyển hóa của cặp quan hệ này đương nhiên sẽ dẫn đến việc cài đặt lại quan hệ của cả hệ thống, dẫn tới tập hợp lực lượng mới và không ít thì nhiều, tác động đến mọi quốc gia.
Một đặc điểm nổi bật khác của tình hình thế giới mấy năm nay là Trung Quốc tiếp tục đà trỗi dậy mạnh mẽ, đóng vai trò vừa là động lực vừa là tác nhân của nhiều biến đối sâu rộng trên thế giới. Hai năm qua chứng kiến việc Trung Quốc xác định lộ trình tiến vào trung tâm vũ đài thế giới. Ít người nghi ngờ rằng, trong vòng 15 năm tới, nếu Trung Quốc vẫn khai thác được “thời kỳ cơ hội chiến lược quốc tế”, nước này có thể hoàn thành những mục tiêu cơ bản mà Đại hội 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra. Nhưng, có lẽ không chỉ mục tiêu, mà cả các cách thức để thực hiện các mục tiêu ấy, đang gây lo ngại sâu sắc cho thế giới phương Tây. Nếu một liên minh lấy Trung Quốc làm đối thủ trở thành hiện thực, Trung Quốc sẽ gặp không ít khó khăn và sự trỗi dậy phải chậm lại.
Như các nền văn minh trong lịch sử nhân loại cho thấy, một cường quốc để giữ được vị thế trung tâm quyền lực, cần 4 yếu tố: Lãnh thổ phải đủ rộng; dân số phải đủ lớn; nền kinh tế phải đủ mạnh; hệ tư tưởng phải đủ bền vững, gắn kết dân tộc mình và lan tỏa ảnh hưởng ra thế giới. Trung Quốc có lẽ phải làm nhiều hơn nữa bằng những cách tiếp cận phù hợp với tâm thức thời đại.
Các chiến lược gia Mỹ cho rằng, Mỹ có 10 năm trước khi quá muộn để ngăn chặn việc Trung Quốc tiến lên chiếm lĩnh vị trí chủ đạo trên vũ đài thế giới. Đối đầu thương mại chỉ là đòn mở đầu. Tiếp theo có thể là tiền tệ, dầu lửa, là những thứ còn nằm trong tầm kiểm soát của Mỹ. Mới đây, Mỹ không chỉ cùng các đồng minh khởi xướng sáng kiến đầu tư cơ sở hạ tầng ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương để đối trọng với BRI, mà có thể sẽ sử dụng các biện pháp tổng hợp để buộc Trung Quốc cuối cùng phải quay về giải quyết những vấn đề bên trong hoặc thu hẹp các mục tiêu tham vọng “đi ra thế giới”.
Trong lịch sử lâu dài của mình, Trung Quốc từng sáng tạo nền văn minh cổ đại xán lạn. Cũng không phải lần đầu tiên Trung Quốc trở thành quốc gia giàu mạnh nhất thế giới, mà lịch sử từng chứng kiến các giai đoạn thịnh trị thời nhà Đường hoặc nhà Thanh. Trong bình “hồ lô” mà người Hoa Hạ truyền lại hẳn không thiếu các dược phương. Trước đòn phủ đầu thương mại của Mỹ, người Trung Quốc đang phản tỉnh chiến thuật về đối sách. Trước mắt, Bắc Kinh có thể đang tìm sự đồng thuận nội bộ về những nhượng bộ sách lược để hóa giải cuộc xung đột Mỹ-Trung. Về lâu dài, Trung Quốc sẽ sử dụng quốc lực dồi dào và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương để đạt đến sự tự chủ về công nghệ cao, cũng như về thương mại…
Mâu thuẫn Mỹ-Trung sẽ tác động đến nhiều mặt của đời sống quốc tế theo chiều hướng thuận nghịch. Mâu thuẫn này có thể làm chậm lại hoặc cản trở việc định hình thế giới lưỡng cực, duy trì cục diện đa cực. Nhưng các cọ xát địa chính trị/kinh tế nếu vượt tầm kiểm soát, có thể tác động tiêu cực đến sự tăng trưởng của kinh tế toàn cầu.
Ông Trump vừa qua đã làm một cuộc cải cách sâu sắc về thuế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Mỹ đổi mới công nghệ. Trung Quốc có thể sẽ triển khai những cải cách được ấp ủ từ lâu. Các trung tâm quyền lực khác tích cực sắp xếp lại ngôi nhà của mình, tối đa hóa lợi ích trong các tập hợp lực lượng mới.
Những quốc gia như Việt Nam sẽ chịu không ít thách thức từ môi trường địa chính trị/kinh tế mới, có thể bị cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 qua mặt. Dòng vốn đầu tư có thể bị rút về chính quốc hoặc đất nước trở thành bãi thải công nghệ thứ cấp.
Việt Nam trước hết cần nhận biết bản chất của những biến đổi, đẩy mạnh cải cách, nâng cao nội lực của mình, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế theo định hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Phải nâng cao chất lượng hợp tác với các nước lớn và cộng đồng ASEAN. Cần từ bỏ định kiến cũng như những ràng buộc không hợp thời về ý thức hệ, giải phóng tư tưởng, mở rộng quan hệ dựa trên “lợi ích tương quan” với các đối tác, có thể “cộng sinh” trong những lợi ích chung. Việc vận dụng phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại càng mang tính thời sự sâu sắc./.
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế (CSSD)
Xem thêm
|
|
|
|
|
|
|
|
Nguyễn Vinh Quang
Cố vấn cao cấp
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quan hệ Quốc tế (CSSD)
* Bài viết đã đăng trên tạp chí Cộng sản số tháng 4/2018.
Kể từ cải cách mở cửa (1978) đến nay, Trung Quốc đã tiến hành 7 lần điều chỉnh, đổi mới bộ máy quản lý điều hành từ Trung ương đến địa phương, Trung Quốc gọi là “cải cách cơ cấu chính phủ”[1]. Mục tiêu chủ yếu là khắc phục tình trạng chính phủ mạnh về chức năng quản lý, yếu về chức năng phục vụ, cồng kềnh về cơ cấu và biên chế, chồng chéo mơ hồ về chức năng, đẩy nhanh việc xây dựng một chính phủ phục vụ, trách nhiệm, liêm khiết, hiệu quả, vận hành hài hòa đúng luật, thích ứng với thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Việc đi sâu nghiên cứu quá trình cải cách cơ cấu chính phủ của Trung Quốc có ý nghĩa tham khảo rất quan trọng đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là sau khi các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ra đời.
I. Nhìn lại 7 cuộc cải cách cơ cấu chính phủ Trung Quốc
1) Năm 1982: Quy định rõ cơ cấu về chức vụ, độ tuổi và văn hoá của các cấp, các bộ, đã giảm được cấp phó. Tinh giản bộ máy Quốc Vụ viện từ 100 bộ ngành xuống 61 bộ ngành; giảm biên chế Quốc vụ viện từ 51.000 người xuống 30.000 người. Cuộc cải cách này đã nâng cao được năng suất hiệu quả công việc, thực hiện trẻ hóa cán bộ. Thành công không chỉ là tinh giản bộ máy, mà ảnh hưởng lâu dài của cải cách này một là xóa bỏ được chế độ giữ chức vụ lãnh đạo suốt đời, hai là đa số tri thức trẻ lên làm lãnh đạo với tiêu chuẩn “bốn hóa” (cách mạng hóa, trẻ hóa, tri thức hóa, chuyên môn hóa).
2) Năm 1988: Quốc vụ viện giảm từ 45 bộ ngành xuống 41 bộ ngành; 22 đơn vị trực thuộc giảm xuống 19 đơn vị; 75 đơn vị đặc biệt giảm xuống 44 đơn vị; giảm biên chế nhân viên 19,2%. Lần đầu tiên đề ra nhiệm vụ chuyển đổi chức năng chính phủ. Sau cải cách, Quốc vụ viện giảm biên chế được hơn 9.700 người so với trước.
3) Năm 1993: Sau cải cách, tổng cộng các bộ, ủy ban, đơn vị trực thuộc Quốc vụ viện từ 86 đơn vị giảm xuống 59 đơn vị; giảm biên chế nhân viên 20%. Quốc vụ viện không lập các Cục nhà nước do Bộ quản lý nữa. Đơn vị sự nghiệp trực thuộc Quốc vụ viện điều chỉnh thành 8 đơn vị. Cải cách lần này nêu ra mục tiêu xây dựng thể chế quản lý hành chính thích ứng với sự phát triển của kinh tế thị trường XHCN, thực hiện tách chính quyền với doanh nghiệp, chuyển đổi chức năng chính phủ, chức năng quản lý hành chính chuyển theo hướng quy hoạch tổng thể, nắm vững chính sách, hướng dẫn tin học, phối hợp tổ chức, cung cấp dịch vụ, kiểm tra giám sát. Lúc này mục tiêu “thể chế kinh tế thị trường XHCN” đã chính thức ra đời năm 1992.
4) Năm 1998: Đây là cuộc cải cách cơ cấu chính phủ mạnh nhất từ trước đến nay. Nhiệm vụ chủ yếu là chuyển đổi chức năng chính phủ theo yêu cầu của kinh tế thị trường XHCN, cải cách chế độ sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Giải thể 15 bộ, lập thêm 4 bộ, đổi tên 3 bộ. Các bộ và ủy ban của Quốc vụ viện từ 40 giảm xuống còn 29; tinh giản 1/4 cơ cấu trong các bộ; chuyển giao hơn 200 chức năng cho doanh nghiệp, địa phương, các tổ chức môi giới xã hội, các tổ chức ngành nghề; giảm biên chế nhân viên của Quốc vụ viện 50% (từ 3.400 xuống 1.700). Tổng cộng từ Trung ương đến các cấp địa phưởng giảm 47% nhân viên. Đặc điểm nổi bật là về quản lý hành chính, chính phủ không quản lý kinh tế các ngành công nghiệp cụ thể.
5) Năm 2003: Tiến hành trong bối cảnh Trung Quốc gia nhập WTO. Ngoài Văn phòng, Quốc vụ viện còn 28 bộ. Thành lập mới một cơ cấu đặc biệt trực thuộc Quốc vụ viện là Ủy ban Giám sát và Quản lý tài sản nhà nước, cải tổ Ủy ban Phát triển và Kế hoạch nhà nước thành Ủy ban Phát triển và Cải cách nhà nước. Cuộc cải cách này thúc đẩy thêm một bước việc chuyển đổi chức năng chính phủ, nêu rõ chức năng chính phủ phải tập trung vào 4 mặt: điều tiết kinh tế, giám sát quản lý thị trường, quản lý xã hội và dịch vụ công. Mục tiêu cải cách là xây dựng một thể chế quản lý hành chính quy phạm chuẩn mực, vận hành hài hòa, công bằng minh bạch, liêm khiết hiệu quả.
6) Năm 2008: Lập các bộ mới là Bộ Công nghiệp và Tin học hóa, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên nhân lực và Bảo đảm xã hội, Bộ Bảo vệ môi trường, Bộ Xây dựng nhà ở và thành thị nông thôn. Giải thể một số bộ như Ủy ban Khoa học kỹ thuật quốc phòng, Bộ ngành nghề tin học, Bộ Giao thông, Bộ Nhân sự, Bộ Lao động và bảo đảm xã hội, Bộ Xây dựng. Ngoài Văn phòng, Quốc vụ viện còn lại 27 bộ. Nhìn chung cải cách lần này là sự tiếp tục và đi sâu thêm trên cơ sở các cuộc cải cách trước đó nhằm thích ứng với bối cảnh gia nhập WTO.
7) Năm 2013: Trọng điểm cải cách lần này là xoay quanh chuyển đổi chức năng và xử lý quan hệ giữa chức vụ và trách nhiệm, thúc đẩy cải cách “chế độ bộ lớn” một cách ổn định. Cuộc cải cách này lấy chuyển đổi chức năng làm hạt nhân, tiếp tục tinh giản bộ máy, giao bớt quyền lực, thúc đẩy cải cách cơ cấu, hoàn thiện cơ chế chế độ, nâng cao hiệu quả hành chính, đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, tạo sự đảm bảo về mặt chế độ cho xây dựng thành công toàn diện xã hội khá giả. Sau cải cách còn lại 25 bộ.
II. Về cuộc cải cách cơ cấu chính phủ của Thủ tướng Chu Dung Cơ
Người viết muốn đi sâu hơn về cuộc cải cách lần thứ 4 (năm 1998) do thủ tướng Chu Dung Cơ chủ trì vì cho rằng, đây là cuộc cải cách có quy mô lớn nhất, mang đến hiệu quả rõ ràng nhất trong 7 cuộc cải cách cơ cấu (kết quả nêu ở phần trên). Các cuộc cải cách trước đó của Trung Quốc không giải quyết được những chướng ngại cơ bản như bộ máy chồng chéo, cồng kềnh, biên chế ngày càng phình ra; các cuộc cải cách sau đó chủ yếu là các cuộc điều chỉnh lại cơ cấu, không gây biến động lớn. Bởi vậy người Trung Quốc cho rằng, kể từ cải cách mở cửa đến nay, hai sự kiện được coi là “cuộc cách mạng” thật sự, làm xoay chuyển tình hình nội bộ Trung Quốc, đó là cuộc cải cách cơ cấu chính phủ của Chu Dung Cơ năm 1998 và cuộc chống tham nhũng của Tập Cận Bình hiện nay.
Xét bối cảnh và yêu cầu phát triển của Trung Quốc năm 1998, thấy nhiều nét tương đồng với bối cảnh Việt Nam hiện nay. Nhiều vấn đề gặp phải về bộ máy nhà nước cũng tương đồng với những vấn đề của Việt Nam đang đối mặt. Vào thời điểm nói trên ở Trung Quốc, về mặt lý luận, thể chế “kinh tế thị trường XHCN” đã hình thành và tiếp tục hoàn thiện; vai trò của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cũng như chức năng chính phủ và chức năng thị trường v.v... đã được xác định lại; thực tiễn đòi hỏi có một cuộc đổi mới về bộ máy chính quyền để thích ứng với thể chế kinh tế mới. Bởi thế, những kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình cải cách cơ cấu chính phủ giai đoạn này, rất đáng để chúng ta tham khảo.
II.1. Bối cảnh của cải cách
Nhiều vấn đề tồn tại trong bộ máy chính phủ dù đã qua nhiều lần cải cách vẫn chưa giải quyết được một cách căn bản. Sự bố trí bộ máy của chính phủ vẫn luôn mâu thuẫn với sự phát triển của kinh tế thị trường. Năm 1992, Đại hội Đảng lần thứ XIV quyết định xây dựng thể chế “kinh tế thị trường XHCN”. Năm 1993, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 quyết định khung cơ bản của thể chế kinh tế thị trường. Nếu không thay đổi cơ cấu, chức năng, quy mô của bộ máy điều hành của chính phủ, mâu thuẫn giữa cơ chế điều hành cũ với sự phát triển của thị trường ngày càng nổi cộm thành một lực cản khó vượt qua. Mặt khác bộ máy cồng kềnh, chồng chéo của thể chế kinh tế kế hoạch cũ ngày càng phình ra, không những gây khó khăn cho thị trường mà còn là gánh nặng quá tải cho tài chính nhà nước.
Những vấn đề phải giái quyết:
Một là, vấn đề chính quyền và doanh nghiệp dính vào nhau, chính quyền trực tiếp can dự vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không thể hình thành thể chế đầu tư có được quyết sách khoa học, dễ gây nên trách nhiệm không rõ ràng, quyết sách sai lầm, khó phát huy vai trò cơ sở của thị trường trong bố trí tài nguyên[2]. Chính quyền và doanh nghiệp không tách ra tất yếu dẫn đến chính quyền bao biện những việc thuộc về doanh nghiệp, phần nhiều các doanh nghiệp đặt dưới quyền các bộ, ngành quản lý kinh tế chuyên trách (các doanh nghiệp thường gọi các bộ chủ quản là “mẹ chồng khó tính”). Đồng thời, việc nhấn mạnh một cách phiến diện sự ràng buộc lẫn nhau giữa các bộ ngành tổng hợp với các bộ chuyên trách, càng tạo nên sự trùng lặp về chức năng giữa các bộ, mỗi bộ một lệnh, đùn đẩy đổ lỗi nhau, hiệu quả làm việc kém.
Hai là, nguyên tắc thiết lập bộ máy chính phủ vốn dĩ được xác lập trong điều kiện chế độ pháp luật XHCN chưa hoàn thiện. Chủ yếu dựa vào biện pháp hành chính để quản lý kinh tế và công việc xã hội. Rất nhiều vấn đề đáng lẽ giải quyết bằng pháp luật hoặc thông qua các tổ chức trung gian và các tổ chức xã hội, cũng lại quản lý bằng bộ máy chính phủ, đổ quá nhiều trách nhiệm xã hội cũng như mâu thuẫn sự việc lên đầu chính phủ. Chính phủ đã quản quá nhiều việc không nên quản, không thể quản mà trên thực tế là quản không tốt, ảnh hưởng đến việc chính phủ không tập trung sức vào làm những việc phải làm. Cùng với sự hoàn thiện pháp chế XHCN và sự phát triển của các tổ chức xã hội, đòi hỏi phải kịp thời đổi mới những nguyên tắc thiết lập và phương thức vận hành chức năng bộ máy chính phủ, phân rõ ranh giới trách nhiệm giữa chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội, thực hiện pháp chế hóa, quy phạm hóa kinh tế thị trường.
Ba là, hiện tượng bộ máy chính quyền cồng kềnh, trùng lặp, người nhiều hơn việc rất nghiêm trọng, “lắm chùa nhiều sãi”, “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”. Đã bao nhiêu cuộc “tinh giản”, nhưng lại vấp phải vòng luẩn quẩn ác tính: “Tinh giản -> phình ra -> lại tinh giản -> lại phình ra…”.
Bộ máy phình to đem đến cho chính phủ những phiền toái trở ngại trong vận hành và những tệ nạn khác. Do bị chồng chéo trùng lặp, quá nhiều tầng nấc, nhiều cơ quan hành chính làm việc gì cũng khó; chức trách không rõ ràng, có việc ai cũng làm, có việc chẳng biết nên để cho ai làm, đùn đẩy nhau, hiệu quả làm việc thấp. Nghiêm trọng hơn là do bộ máy cồng kềnh trùng lặp, chức, quyền và trách nhiệm của từng cơ quan không rõ ràng, tạo nên quyền lực bị khuyếch đại, bị lạm dụng, đến mức hiện tượng tham nhũng trong nội bộ cơ quan tồn tại ngang nhiên. Dù chống rất quyết liệt, các sự kiện quan chức lợi dụng chức vụ, tham nhũng hối lộ, dối trá vụ lợi... vẫn không ngừng diễn ra. Sự sinh sôi các hiện tượng tham nhũng này gây ảnh hưởng và tổn thất lớn cho đất nước. Mặt khác, sự phình ra của cơ cấu chính quyền và nhân viên hành chính khiến chi tiêu tài chính ngày càng lớn, chi tiêu tính theo đầu người ngày càng nhiều. Điều đó đã trở thành một nhân tố quan trọng kiềm chế sự giàu lên của xã hội. Lực lượng sản xuất xã hội phải cõng trên lưng đội ngũ quan chức ngốn tài chính như vậy khó mà “bò” đi được.
Theo Thủ tướng Chu Dung Cơ, một nguyên nhân quan trọng sinh ra thâm hụt tài chính là chi phí hành chính tăng quá mạnh. Theo thống kê của Bộ Tài chính, chi phí mỗi năm cho bộ máy chính quyền và nhân viên hành chính chiếm tới trên 30% tổng chi phí tài chính. Như vậy vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội sẽ giảm rất mạnh. Một thượng tầng kiến trúc đồ sộ như vậy, tất yếu sẽ đè sập cơ sở kinh tế mỏng yếu. Thời kinh tế kế hoạch, một khi kinh tế phát triển lại đòi hỏi tăng thêm bộ máy và nhân viên quản lý kinh tế, làm cho bộ máy phình ra, bộ máy phình ra tất yếu kiềm chế sức sống của kinh tế. Trong hoạt động kinh tế thị trường, dù là cá nhân hay là đơn vị doanh nghiệp cũng đều phải gắng sức giảm giá thành, tăng lợi nhuận mức cao nhất. Nhưng trong hoạt động của chính phủ lại không có động cơ như vậy, vẫn duy trì nguồn thu nhập chính phủ, chẳng liên quan gì đến giá thành thu nhập này cả, năng suất thấp vẫn được khuyến khích.
Vào thời điểm cải cách và phát triển đã bước vào giai đoạn mới, chính phủ phải đối mặt với nhiều vấn đề mới. Một mặt, thể chế kinh tế thị trường XHCN đã từng bước được xây dựng, giao lưu hội nhập quốc tế về kinh tế, khoa học công nghệ, văn hóa… không ngừng mở rộng, công cuộc xây dựng hiện đại hóa tiến triển nhanh chóng. Mặt khác, doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ tương đối nhiều, nhân viên mất việc và thất nghiệp tăng, mâu thuẫn xã hội tăng theo, không thể coi thường. Cơ sở nông nghiệp vẫn mỏng yếu, chênh lêch thành thị, nông thôn, công nhân, nông dân vẫn rất lớn. Đầu tư mù quáng và chồng chéo tạo thành nợ xấu, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về tài chính. Trong tình hình đó, bắt buộc phải đẩy nhanh cải cách bộ máy chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi cho thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ ổn định xã hội. Cải cách bộ máy được coi là “một cuộc cách mạng”. Cải cách không thể không trở ngại và rủi ro, nhưng tình thế bắt buộc, không làm là không có lối thoát. Thậm chí còn gọi đây là “bối thủy chi chiến” (trận chiến quay lưng ra bờ sông, không có chỗ lùi). Thủ tướng Chu Dung Cơ tuyên bố: “Bất chấp phía trước là bãi mìn và vực thẳm, Chu Dung Cơ tôi vẫn tiến lên, việc nghĩa không thể lùi bước”.
II.2. Mục tiêu và nguyên tắc của cải cách:
Mục tiêu: Xây dựng một hệ thống quản lý hành chính làm việc hiệu quả cao, vận hành hài hòa, hành vi chuẩn mực, hoàn thiện chế độ viên chức, xây dựng đội ngũ quản lý hành chính chuyên môn hóa có chất lượng cao, từng bước thành lập một thể chế quản lý hành chính mang đặc sắc Trung Quốc, thích ứng với thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Nguyên tắc của cải cách:
- Chuyển đổi chức năng chính phủ, thực hiện chính phủ tách khỏi doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN. Phải thiết thực chuyển chức năng chính phủ sang điều tiết vĩ mô, quản lý xã hội và dịch vụ công, thực sự giao quyền sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức của chính quyền, thực hành tinh binh giản chính theo nguyên tắc tinh giản, thống nhất, hiệu quả. Tăng cường các bộ ngành điều hành vĩ mô, điều chỉnh và giảm thiểu các bộ ngành kinh tế chuyên môn, điều chỉnh thích ứng các bộ ngành dịch vụ xã hội, tăng cường các bộ ngành quản lý giám sát chấp pháp, phát triển các tổ chức xã hội trung gian.
- Điều chỉnh quyền hạn chức trách các bộ ngành chính phủ theo nguyên tắc gắn chặt giữa quyền hạn và trách nhiệm. Phân công rõ ràng rành mạch chức năng giữa các bộ ngành, chức năng giống nhau hoặc gần giống nhau giao cho một bộ đảm nhiệm, khắc phục tình trạng nhiều đầu mối quản lý một việc, nhiều đầu mối cùng ra lệnh.
- Thực hiện hành chính theo pháp luật, tăng cường xây dựng pháp chế hệ thống hành chính theo yêu cầu quản lý đất nước theo pháp luật.
Từ mục tiêu và những nguyên tắc trên, Quốc hội đã thông qua phương án cụ thể là giảm từ 40 bộ và ủy ban (ngoài văn phòng Quốc vụ viện) xuống còn 29 bộ và ủy ban. Chia làm 4 nhóm: (1) Nhóm các bộ điều hành vĩ mô; (2) Nhóm các bộ quản lý kinh tế chuyên ngành; (3) Nhóm các bộ ngành giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hoá, bảo hiểm xã hội, quản lý tài nguyên; (4) Nhóm các bộ ngành chính trị quốc gia.
II.3. Tổ chức thực hiện
Phương án cải cách cơ cấu Quốc vụ viện đề ra vừa tính đến yêu cầu của cải cách và phát triển, cũng phải tính đến khả năng chịu đựng của xã hội. Bởi thế phương án vẫn có tính quá độ. Về mức độ cải cách, có nhiều tranh luận. Có ý kiến cho rằng, cải cách nên bước dài một chút, cố hết sức một bước đến nơi, thiết lập thể chế hành chính thích ứng với kinh tế thị trường. Một số ý kiến khác lại cho rằng, trọng điểm của cải cách là doanh nghiệp nhà nước, nhiệm vụ rất nặng nề, công nhân viên chức mất việc nhiều, độ khó cao, cải cách không thể bước quá dài. Chủ tịch Giang Trạch Dân nêu phương châm “vừa tích cực vừa ổn thỏa”, nghĩa là vừa phải mạnh tay vừa phải mềm dẻo thỏa đáng, trong quá trình lập phương án cải cách, luôn chú ý cả 2 mặt này.
Thứ nhất, kiên trì phương châm vừa tích cực vừa ổn thoả. Đây là cuộc cải cách thay đổi cơ cấu nhiều nhất, điều chỉnh nhân viên nhiều nhất kể từ cải cách mở cửa, nên trong việc tổ chức thực hiện phải chú ý bố trí tổng thể giữa cải cách bộ máy với thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giữ ổn định chính trị xã hội, không gây “sốc”. Ngay sau khi phương án được thông qua, các cơ quan mới thiết lập phải nhanh chóng treo biển làm việc, công việc điều chỉnh nội bộ cũng phải tiến hành nhanh chóng. Phương án “ba định” (định chức năng, định cơ cấu, định biên chế) của các bộ của Quốc vụ viện phải thực hiện xong trong vòng nửa năm, công việc hành chính cơ quan đi vào trật tự vận hành mới. Sau khi cải cách cơ cấu Quốc vụ viện, sẽ tiến hành cải cách cơ cấu chính quyền các cấp địa phương. Phương án “ba định” cấp tỉnh hoàn thành sau một năm. Các địa phương làm theo sự bố trí thống nhất của Quốc vụ viện. Phải thiết thực tăng cường lãnh đạo, làm việc kiên nhẫn tỉ mỉ, tư tưởng không phân tán, trật tự không lộn xộn, nhân viên được bố trí thoả đáng, tài sản Nhà nước không được để thất thoát, công tác phải vận hành bình thường.
Thứ hai, làm tốt công tác “phân luồng nhân viên”, nâng cao trình độ đội ngũ viên chức và nhân viên công tác cơ sở. Phân luồng nhân viên tức bố trí lại công việc cho nhân viên, giải quyết công ăn việc làm cho số nhân viên dư thừa. Tinh binh giản chính, phân luồng nhân viên là những việc khó của các cuộc cải cách cơ cấu. Mục tiêu của cải cách lần này là giảm tổng số biên chế cán bộ cơ quan xuống 50%. Công tác giảm biên chế nhân viên trong cơ quan Quốc vụ viện yêu cầu phải hoàn thành trong một năm. Nhưng công tác phân luồng nhân viên dự định phải mất 3 năm. Nhân viên công tác cơ quan có trình độ văn hoá tương đối cao, hiểu biết chính sách phương châm, là tài sản quý báu của nước nhà, cần phải bố trí thoả đáng, phát huy đầy đủ vai trò của họ. Phương pháp cơ bản phân luồng nhân viên là: phân luồng giữ nguyên chức, đào tạo có định hướng, tăng cường cho doanh nghiệp, tối ưu hoá cơ cấu. Phân luồng giữ nguyên chức nghĩa là sau khi định biên xong, số cán bộ dư thừa rời khỏi cơ quan vẫn giữ nguyên chức. Đào tạo có định hướng nghĩa là đào tạo chính quy kiến thức các mặt như kế toán, kiểm toán, pháp luật, quản lý kinh tế, quản lý giáo dục v.v... nhằm chuẩn bị cho vị trí công tác mới. Tăng cường cho doanh nghiệp nghĩa là chọn những nhân viên sau khi đã đào tạo có định hướng, trước hết là bổ sung cho các doanh nghiệp công thương, doanh nghiệp tài chính tiền tệ, sau nữa là các cơ quan chấp pháp như tài chính thuế vụ, chính pháp, quản lý thị trường, các đơn vị văn hóa, giáo dục, y tế và tổ chức xã hội thích ứng với phát triển kinh tế thị trường. Tối ưu hóa cơ cấu nghĩa là thông qua việc phân luồng nhân viên, điều chỉnh cơ cấu tuổi tác, cơ cấu tri thức và cơ cấu chuyên ngành của nhân viên chính quyền và doanh nghiệp, cơ quan và cơ sở, đạt được tổ hợp tối ưu, nâng cao toàn diện chất lượng tổng thể của đội ngũ công chức và nhân viên cơ sở. Đơn vị sự nghiệp có số lượng lớn, nhiệm vụ cải cách khối này rất nặng nề, ngoài các đơn vị giáo dục và một số rất ít đơn vị khác yêu cầu phải cấp tài chính ra, các đơn vị sự nghiệp còn lại mỗi năm giảm tài chính 1/3, cố gắng trong 3 năm cơ bản tự túc được.
Thứ ba, chuyển đổi chức năng chính phủ một cách nghiêm túc, cải tiến tác phong làm việc, nâng cao hiệu quả công tác. Đây là tiêu chí quan trọng đối với hiệu quả của cải cách cơ cấu. Bất kể bộ ngành mới thành lập hay bộ ngành được giữ lại, sau cải cách cơ cấu, trách nhiệm công tác không hề giảm nhẹ mà còn nặng hơn, phải căn cứ yêu cầu mới, nâng cao khả năng làm việc theo pháp luật, thực hiện chức trách của cơ quan nhà nước. Phải hoàn thiện thêm một bước chế độ vận hành hành chính, tăng cường chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, quy phạm hóa chức quyền của người lãnh đạo, chống đùn đẩy nhau, kỷ luật hành chính nghiêm khắc, giám sát những hành vi tắc trách. Các bộ mới thành lập cũng như các bộ bị điều chỉnh lớn phải nhanh chóng xử lý quan hệ chức năng, đảm bảo vận hành bình thường. Tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ theo tiêu chuẩn có đức có tài, ban lãnh đạo phải làm tốt công tác tự xây dựng mình, tăng cường đoàn kết nội bộ. Tất cả nhân viên công tác chính quyền đều phải nỗ lực học tập, cần cù liêm chính, khắc khổ công tác thành những công chức được nhân dân hài lòng.
Thứ tư, tăng cường xây dựng pháp chế của hệ thống tổ chức hành chính. Tăng cường và hoàn thiện lập pháp hành chính trên cơ sở đã cải cách cơ cấu, tinh binh giản chính. Kiến nghị sửa đổi “Luật tổ chức Quốc vụ viện”, quy phạm hoá theo pháp luật việc bố trí các bộ ngành của Quốc vụ viện. Kiến nghị sửa đổi “Luật tổ chức địa phương” khi thích hợp, làm rõ hơn những chuẩn mực về quyền hạn chức trách và cơ cấu tổ chức của chính quyền địa phương. Trên cơ sở “ba định” của các bộ, tiến hành lập pháp tổ chức của bộ, làm rõ chức năng công tác, hoàn thiện quy trình công tác. Đẩy nhanh việc soạn thảo quy chế quản lý các tổ chức, kiểm soát cơ cấu và biên chế, thiết lập cơ chế ràng buộc.
Thứ năm, chấp hành nghiêm kỷ luật chính trị, phục tùng đại cục cải cách. Cải cách cơ cấu và phân luồng nhân viên đụng chạm đến toàn cục cải cách, phát triển và ổn định, đụng chạm đến quyền lực của các bộ ngành và lợi ích thiết thân của cán bộ, cần phải nhấn mạnh việc xem xét toàn cục. Cán bộ các cấp, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo cần phải phục tùng sự bố trí của tổ chức, nhìn nhận đúng đắn sự thay đổi cương vị công tác cá nhân.[3] Việc nghiên cứu và soạn thảo phương án cải cách đã tính đến ý kiến các mặt, khi phương án được phê chuẩn là phải kiên quyết chấp hành, phải đồng tâm hiệp lực, tranh thủ thực hiện thuận lợi cải cách cơ cấu chính phủ.
Thứ sáu, tháng 4/1999, Trung Quốc ban hành lệnh cấm triệt để quân đội, công an, cảnh sát vũ trang tiến hành các hoạt động kinh doanh, lập doanh nghiệp; cấm tất cả các thương phẩm ngoài thị trường mang nhãn hiệu “quân đội”, “quốc phòng”, “Bát nhất” cũng như phiên hiệu các nhà máy (cũ) của quân đội. Mục đích là “bảo vệ lợi ích công và giữ trật tự của kinh tế thị trường”.[4] Quân đội, công an, cảnh sát vũ trang là công cụ chuyên chính vô sản, không được lợi dụng đặc quyền hành chính để tham gia cạnh tranh thị trường.
III. Một số kinh nghiệm chủ yếu Việt Nam có thể tham khảo
Tổng kết tất cả 7 cuộc cải cách cơ cấu chính phủ của Trung Quốc kể từ cải cách mở cửa đến nay, rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu mà Việt Nam có thể tham khảo như sau:
Thứ nhất, kiên trì lấy chuyển đổi chức năng chính phủ làm then chốt cho cải cách cơ cấu. Cơ cấu và chức năng có liên quan chặt chẽ với nhau, dựa vào nhau để tồn tại, chỉ có trên cơ sở vạch rõ phạm vi nghiệp vụ thì mới có thể tinh giản bộ máy và nhân viên một cách hiệu quả. Trong “ba định”, trước hết là định rõ chức năng, tiếp theo là định rõ cơ cấu (bộ máy). Nếu chưa định rõ chức năng là chưa thể định cơ cấu, lại càng không thể định biên chế được. Không thể giảm biên một cách mù quáng khi chưa xác định được chức năng và cơ cấu. Các cuộc cải cách ban đầu của Trung Quốc trước đó sở dĩ hiệu quả không cao, vì vấn đề nằm ở thể chế kinh tế kế hoạch. Quyền lực hành chính từ vĩ mô đến vi mô, từ hoạt động kinh tế đến hành vi xã hội, từ đơn vị đến cá nhân, từ sinh lão bệnh tử đến ăn ở đi lại, có thể nói là chẳng có gì không quản lý. Mô hình quản lý toàn năng này làm cho cải cách cơ cấu không thể tinh giản hiệu quả được, càng giảm càng phình ra. Kể từ khi xác định mục tiêu thể chế kinh tế thị trường, cải cách cơ cấu càng nhấn mạnh chức năng chính phủ phải thích ứng với nhu cầu phát triển kinh tế thị trường, càng phải làm rõ hơn quyền hạn quản lý và phạm vi công tác của các bộ, các ngành, kết hợp chặt chẽ giữa cải cách cơ cấu với chuyển đổi chức năng và xử lý tốt các mối quan hệ. Chính là thông qua việc thu nhỏ phạm vi quản hạt của chính phủ, giảm bớt quyền của chính phủ là đã thực hiện tinh giản cơ cấu chính phủ, đặc biệt là phải tinh giản các bộ kinh tế chuyên trách công nghiệp (vì các bộ này là con đẻ của thể chế kinh tế kế hoạch). Thực tiễn đã chứng minh, cải cách cơ cấu phải nắm chắc cái chìa khóa làm rõ chức năng chính phủ và chuyển đổi chức năng chính phủ, làm rõ chức năng từng bộ ngành, như thế mới đạt được mục đích cải cách. Đây là then chốt thành công của cải cách cơ cấu.
Thứ hai, kiên trì nguyên tắc vừa tích cực vừa ổn thỏa. Cải cách cơ cấu là sự điều chỉnh lớn các loại lợi ích và quyền lực, đụng chạm nhiều mặt, mâu thuẫn nhiều, độ khó khăn cao, động đến lợi ích rất nhiều người, nhiều nhóm người. Thể chế chính phủ từ lúc khai sinh được thiết lập trên cơ sở kinh tế kế hoạch lâu dài, mọi mặt cuộc sống xã hội đều quy vào kế hoạch, đều do chính phủ quản lý, bộ máy cồng kềnh, phình to. Cùng với việc nhận thức được tính bức thiết, tính cần thiết của cải cách cơ cấu, cũng phải nhận thức được tính phức tạp, tính gian nan của nó. Chính vì tính đến tính phức tạp của cải cách, cải cách cơ cấu luôn kiên trì kiểu đánh vu hồi, không đánh vỗ mặt. Đối với những vấn đề nhạy cảm như tinh giản cơ cấu, phân luồng nhân viên, vừa chủ động tích cực, tập trung giải quyết những vấn đề nổi cộm, lại vừa luôn kiên trì cải cách theo kế hoạch, chia lộ trình, chia giai đoạn, làm từng bước, vừa làm vừa thăm dò sức chịu đựng của xã hội; vừa từng bước tinh giản bộ máy, lại vừa bố trí nhân viên dư thừa của các cơ quan một cách ổn thỏa, tức là vừa tích cực vừa ổn thỏa.
Thứ ba, phải hoàn thiện các quy chế luật pháp tương quan, cải cách đúng luật. Cải cách là điều chỉnh cục diện lợi ích, bất kỳ cuộc cải cách nào cũng có độ rủi ro, cải cách chính phủ rủi ro càng lớn. Nếu không có sự đảm bảo về luật pháp và quy chế tương ứng, thì rất nhiều cuộc cải cách không thể tiến hành. Bởi vậy, cải cách cơ cấu phải được đặt trên nền tảng của luật pháp và quy chế tương quan, làm theo luật pháp. Với sự tích lũy kinh nghiệm cải cách, Trung Quốc đã từng bước nhận thức được tầm quan trọng của lập pháp hành chính, kết hợp giữa cải cách cơ cấu với tăng cường xây dựng pháp chế hệ thống hành chính, đã cơ bản thực hiện luật pháp hóa cơ cấu tổ chức, chức năng, biên chế, quy trình làm việc. Trung Quốc đã lần lượt cho ra đời một loạt quy chế, luật pháp như “Luật tổ chức Quốc vụ viện”, “Điều lệ về lập bộ máy chính quyền và quản lý biên chế địa phương các cấp”, “Điều lệ về lập bộ máy hành chính và quản lý biên chế Quốc vụ viện” v.v… đảm bảo về chế độ cho cải cách cơ cấu tiến hành thuận lợi, ngăn ngừa một cách hiệu quả bộ máy tiếp tục phình ra. Thông qua việc hoàn thiện pháp luật tương quan để bảo đảm và củng cố thành quả của cải cách cơ cấu đã thành nhận thức chung trong cải cách của Trung Quốc.
Thứ tư, phải phối hợp đồng bộ giữa cải cách cơ cấu với các cải cách khác. Theo kinh nghiệm lịch sử, bất kỳ cuộc cải cách đơn lẻ nào cũng đều không thể thành công, phải tiến hành cải cách đồng bộ với các lĩnh vực khác mới có thể đạt được hiệu quả mong đợi. Một là cải cách cơ cấu đồng bộ với giải phóng tư tưởng. Một cuộc biến đổi lớn tất yếu phải đi đôi với đổi mới về quan niệm, không đổi mới quan niệm cải cách sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Chuyển đổi chức năng chính phủ, xóa cơ quan này, nhập cơ quan kia, phân luồng nhân viên… một mặt phải phá bỏ sự ràng buộc về tư tưởng bởi văn hoá chuyên chế phong kiến cũ và mô hình thể chế XHCN truyền thống, mặt khác phải bằng tâm thái bình tĩnh bao dung xem xét lại chế độ tiên tiến của các nước tư bản phát triển, vừa dám đột phá truyền thống, lại giỏi tiếp thu học hỏi. Không ngừng đổi mới quan niệm chính là sự bảo đảm về tư tưởng cho cải cách cơ cấu chính phủ. Hai là, cải cách cơ cấu phối hợp đồng bộ với hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường XHCN. Hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường XHCN đã thành quốc sách, mà muốn hoàn thiện và phát triển hơn nữa, chính phủ cần phải tự cải cách bản thân mình, từ đó tạo điều kiện cho hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường XHCN. Nhìn dọc quá trình cải cách của Trung Quốc, dù là tinh giản bộ máy hay điều chỉnh nhân viên đều luôn phục tùng nhu cầu phát triển kinh tế thị trường XHCN. Đồng thời đặt lên hàng đầu việc chuyển đổi chức năng chính phủ, thúc đẩy việc tách rời chính quyền và doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp có quyền tự chủ thật sự, hơn nữa phải đi vào chiều sâu cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường XHCN. Ba là, cải cách cơ cấu phối hợp đồng bộ với cải cách chế độ cán bộ nhân sự. Một mặt quan trọng của cải cách cơ cấu chính phủ Trung Quốc là đã thay đổi một cách căn bản chế độ nhân sự truyền thống. Trong đó một tiêu chuẩn quan trọng là thiết lập được chế độ công chức nhà nước. Chất lượng nhân viên hành chính nhà nước đã được đảm bảo, công việc ngày càng chế độ hóa, hiệu quả hành chính nâng lên rõ rệt, đã giảm thiểu trở lực cải cách, đảm bảo cải cách tiến hành thuận lợi. Bốn là, cải cách cơ cấu phối hợp đồng bộ với hoàn thiện năng lực tự trị xã hội. Trên thực tế, cải cách cơ cấu là một quá trình không ngừng chuyển quyền cho xã hội, thông qua một số tổ chức xã hội nào đó đảm nhiệm một phần sự việc công, có tác dụng thúc đẩy và tăng tốc cải cách cơ cấu. Cần phải căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội, coi trọng việc bồi dưỡng các tổ chức xã hội, tạo cơ sở xã hội cho chuyển đổi toàn diện mô hình chính phủ.
Thứ năm, cải cách cơ cấu phải xuất phát từ tình hình nước mình, tùy nơi mà áp dụng, hình thức đa dạng. Đồng thời với việc tham khảo những cách làm thành công của nước ngoài, cần phải tất cả xuất phát từ tình hình nước mình, tính toán cân nhắc, tiến hành từng bước. Nếu cứ bê nguyên kinh nghiệm nước khác, mô hình nước khác vào là khó thành công. Một nước kém phát triển đang trong thời kỳ chuyển đổi mô hình xã hội toàn diện, nếu cải cách cơ cấu cứ đơn giản bê nguyên tiêu chuẩn bộ máy chính phủ của nước ngoài, vội vội vàng vàng giản hóa quyền lực, không những không đạt được mục tiêu cải cách như mong muốn mà còn rất dễ tạo nên rối loạn cuộc sống xã hội. Bởi vậy, tình hình đặc thù của nước nào quyết định cải cách cơ cấu nước đó, không nên và trên thực tế cũng không thể bê nguyên mô hình hành chính phương Tây. Đồng thời cũng phải căn cứ vào tình hình thực tế của từng địa phương như miền Đông, miền Tây, miền núi miền đồng bằng v.v... trình độ phát triển kinh tế, môi trường chính trị xã hội vĩ mô, yêu cầu thực tế của dân chúng khác nhau, phải vừa tích cực chủ động lại vừa thực sự cầu thị tìm tòi con đường cải cách phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Cơ cấu của một tỉnh miền núi không thể giống hoàn toàn một tỉnh miền xuôi. Về lộ trình cải cách cụ thể, tùy nơi mà vận dụng, hình thức đa dạng. Bên cạnh đó, mở cửa đối ngoại và hội nhập quốc tế không thể không coi trọng tiếp thu và học tập kinh nghiệm của nước ngoài, phải dám tiếp thu và biết tiếp thu. Chúng ta không thể bê nguyên mô hình và kinh nghiệm của phương Tây, nhưng một số kinh nghiệm và cách làm trong quá trình hoàn thiện thể chế quản lý hành chính của các nước phát triển đáng được coi trọng, đặc biệt là phương pháp khoa học về quản lý của các nước này. Trên thực tế, mấy năm qua, một số biện pháp cải cách mà chính phủ Trung Quốc tiến hành như chế độ phản biện, phục vụ một cửa, chế độ cam kết phục vụ của chính phủ v.v… lúc đầu là học tập của nước ngoài, sau đó phát triển thêm.
Thứ sáu, phải công khai hóa chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các bộ ngành Trung ương và chính quyền các cấp địa phương. Muốn tăng cường trách nhiệm, hiệu quả làm việc, mức độ liêm khiết của bộ máy chính quyền, cần phải có sự giám sát của công chúng. Không thể giám sát quyền lực khi không rõ phạm vi quyền lực đó. Bởi vậy, Trung Quốc thường công bố rõ ràng chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của các bộ ngành và địa phương. Hình thức là xuất bản sách, website công bố các nội dung: chức năng, cơ cấu, biên chế, lãnh đạo v.v... của từng bộ và từng đơn vị trong mỗi bộ[5]. Gần đây các học giả Trung Quốc kiến nghị lập và công bố ba loại danh mục là danh mục quyền lực, danh mục trách nhiệm và danh mục cấm, nhằm đảm bảo quyền dân chủ, tăng cường giám sát của dân chúng hơn nữa.
Thứ bảy, thành lập cơ quan quản lý thống nhất. “Ủy ban Trung ương về biên chế cơ cấu nước CHND Trung Hoa” là cơ quan điều phối nghị sự đặt dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Quốc vụ viện. Ủy ban này phụ trách công tác cải cách thể chế và cơ cấu quản lý hành chính cũng như công tác quản lý biên chế của cả nước. Ủy ban này cũng thống nhất quản lý công tác biên chế cơ cấu của các cơ quan Đảng, cơ quan Nhân đại, Chính hiệp, Tòa án, Viện Kiểm sát, các đảng phái dân chủ, các đoàn thể nhân dân và các đơn vị sự nghiệp của cả nước. Đây vừa là cơ quan Trung ương Đảng vừa là cơ quan Chính phủ (hiện nay do Thủ tướng Lý Khắc Cường làm Chủ nhiệm và ủy viên Thường vụ BCT, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng Lưu Vân Sơn làm Phó chủ nhiệm). Văn phòng Ủy ban đặt trong Bộ Nhân sự.
Trên đây là một số cách làm và kinh nghiệm của Trung Quốc trong quá trình cải cách bộ máy chính phủ nhằm thích ứng với thể chế kinh tế thị trường XHCN mà chúng tôi tạm rút ra từ quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về Trung Quốc. Chúng tôi cho rằng đây là những kinh nghiệm rất đáng để chúng ta tham khảo trong bối cảnh hiện nay./.
[1] Trong tiếng Trung Quốc, “Chính phủ” chỉ chính quyền từ cấp Trung ương (Quốc vụ viện) đến cấp xã; “Nhân đại” là cơ quan đại biểu nhân dân, Nhân đại toàn quốc tương đương Quốc hội, nhân đại các cấp tương đương Hội đồng nhân dân.
[2] Trong thể chế kinh tế thị trường XHCN ra đời năm 1992, thị trường đóng vai trò cơ sở trong phân bố tài nguyên, đến Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII (2013), điều chỉnh lại, coi thị trường đóng vai trò quyết định.
[3] Nhiều trường hợp cán bộ lãnh đạo thay đổi vị trí thấp hơn về danh nghĩa. Điển hình như ông Ngũ Thiệu Tổ, quân hàm Thiếu tướng, nguyên Chủ tịch Ủy ban Thể thao Quốc gia (UBTT), người được dân chúng coi là vị anh hùng có công củng cố nền thể thao nước nhà. Sau cuộc cải cách này, vì giải thể UBTT, lập Tổng cục TT, ông phải vui vẻ nhậm chức mới - Tổng cục trưởng.
[4] Theo “Luật Công chức” Trung Quốc, tất cả công chức không được phép tham gia các hoạt động kinh doanh kiếm lợi nhuận.
[5] Ví dụ cụ thể: Bộ Văn hóa có 13 chức trách cụ thể; trong Bộ có 11 đơn vị cấp Vụ; biên chế 327 người, bao gồm 01 Bộ trưởng, 04 Thứ trưởng, 44 cán bộ lãnh đạo cấp Cục Vụ (kể cả 01 trợ lý Bộ trưởng, 01 Phó Bí thư đảng ủy chuyên trách, 03 người phụ trách Cục cán bộ hưu trí). Bộ máy đó của Bộ Văn hóa coi như luật định, nếu làm sai là vi phạm pháp luật.
Xem thêm
|
|
Ngày 06/12/2017, Chủ tịch Trung tâm CSSD Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Trường cùng các Cố vấn cao cấp đã tiếp và làm việc với GS. Srikanth Kondapalli, Chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc thuộc Đại học Jawaharlal Nehru.
Xem thêm
|
Ngày 16/11/2017, Trung tâm CSSD tổ chức tọa đàm “Chính sách của Mỹ đối với châu Á và quan hệ Mỹ - Trung”.
Xem thêm
|
Nguyễn Vinh Quang
Cố vấn cao cấp CSSD
Xem thêm
|
|
(TTXVN) Nhân dịp Đại hội lần thứ 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra từ ngày 18-24/10, phóng viên TTXVN có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Vinh Quang, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Phát triển quốc tế về quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam-Trung Quốc, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc những thành tựu đã đạt được và triển vọng quan hệ hai nước trong thời gian tới.
Xem thêm
|
|
|
|
|
|
(Chinhphu.vn) - Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập Liên Hợp Quốc (LHQ), đến nay vừa tròn 40 năm. Chặng đường này đã ghi nhận sự hợp tác sâu rộng và hiệu quả giữa Việt Nam và tổ chức quốc tế lớn nhất và quan trọng nhất của thế giới hiện đại.
Duyên phận
Năm 1945-1946, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư tới các nhà lãnh đạo những nước sáng lập LHQ bày tỏ ý nguyện Việt Nam sẵn sàng hợp tác với LHQ, đề cao Hiến chương LHQ và yêu cầu tổ chức này “thực hiện lời hứa long trọng của mình là tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập”...
Cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân Việt Nam, với thắng lợi vĩ đại Điện Biên Phủ năm 1954, đã góp phần thức tỉnh các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân nô dịch, kích hoạt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới giữa thế kỷ 20. Việc LHQ thông qua Nghị quyết 1514 ngày 14/12/1960 trao trả độc lập cho các nước thuộc địa có sự đóng góp bằng xương máu của nhân dân Việt Nam.
Nằm trong ý tưởng của những nước lớn thành viên sáng lập, LHQ là một tổ chức quốc tế đa phương, một kiến trúc an ninh tập thể nhằm duy trì trật tự thế giới hình thành từ thành quả tiến bộ sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hiến chương LHQ đề ra các nguyên tắc cơ bản, các giá trị cốt lõi về tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết hoà bình tranh chấp, không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực, thúc đẩy tiến bộ xã hội...
LHQ đã chứng tỏ là một diễn đàn quan trọng để các nước vừa và nhỏ bảo vệ các quyền cơ bản được ghi trong Hiến chương. Các cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc đã góp phần có ý nghĩa củng cố những giá trị ấy.
Hai giai đoạn hợp tác chủ yếu
Trong 40 năm qua, LHQ luôn đồng hành cùng Việt Nam trên các chặng đường xây dựng và phát triển. Quan hệ Việt Nam-LHQ trải qua hai thời kỳ chủ yếu: Từ năm 1977 đến cuối những năm 1980 và từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới đến ngày nay.
Trong giai đoạn đầu, Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh, lại vướng vào các cuộc xung đột với các nước láng giềng và chịu sự bao vây cấm vận, LHQ là một trong các cửa ngõ quan trọng để Việt Nam tiếp cận với thế giới.
Đây là một giai đoạn hết sức khó khăn. Đại hội đồng LHQ khóa 32 (1977) đã thông qua Nghị quyết kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh.
Sự hỗ trợ quý báu của các tổ chức LHQ, đặc biệt là Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Cao ủy LHQ về người tị nạn (UNHCR), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)… đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội, hội nhập vào các cơ chế đa phương của thế giới. Điều quan trọng, Việt Nam đã vận dụng các diễn đàn quốc tế để đấu tranh và vượt qua sự chống phá của các thế lực thù địch.
Trong giai đoạn Đổi mới của Việt Nam, sự hợp tác giữa Việt Nam và LHQ không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực, thông qua các hoạt động tư vấn chính sách, trợ giúp kỹ thuật, các chương trình, dự án hỗn hợp song phương, đa phương, và huy động được nguồn vốn quan trọng từ các nước tài trợ và các tổ chức tài chính quốc tế.
Bằng nội lực và sự hợp tác quốc tế hiệu quả, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực và có trách nhiệm, tham gia ngày càng chủ động và có hiệu quả vào nhiều lĩnh vực hoạt động của LHQ.
Nước ta đã tích cực tham gia Sáng kiến “Thống nhất hành động”; triển khai thành công Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ. Các nhà ngoại giao và cán bộ chuyên môn các ban ngành của Việt Nam ngày càng trưởng thành, tham gia lão luyện vào các “sân chơi” của các cơ chế của LHQ, như Hội đồng Bảo an LHQ, Hội đồng Kinh tế-xã hội, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Chấp hành UNESCO, Ủy ban Luật pháp quốc tế.
Với việc Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, hợp tác giữa Việt Nam và LHQ chuyển trọng tâm từ hỗ trợ kỹ thuật sang tư vấn chính sách thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, tập trung vào các lĩnh vực như xoá đói giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng thể chế, bình đẳng giới...
Đồng thời, phù hợp với các giá trị cốt lõi của đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nước ta đã đi đầu trong việc thúc đẩy thực thi các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ vì sự tiến bộ của nhân loại; đấu tranh bảo vệ các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982…
Để đưa quan hệ Việt Nam-LHQ lên một tầng nấc mới, chúng ta cần tăng cường thực lực quốc gia. Như Chủ tịch Hồ Chí minh từng nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to, tiếng mới lớn”.
Thực hiện cuộc đổi mới 2:0, vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” theo các tiêu chí của LHQ, Việt Nam sẽ có điều kiện đóng góp tích cực và hiệu quả hơn nữa cho hoạt động của LHQ, thông qua đó tối ưu hóa lợi ích quốc gia, đồng thời nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp vào sự tiến bộ của tổ chức quốc tế đa phương quan trọng nhất hiện nay.
TS. Nguyễn Ngọc Trường
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và phát triển quốc tế
Xem thêm
|
|
|
(Chinhphu.vn) - Cộng đồng ASEAN cần phải tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, nhằm xây dựng thành công một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết và có tiếng nói quan trọng trong các vấn đề khu vực và quốc tế.
Cách đây 50 năm, Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thành lập tại Bangkok. Sự kiện này diễn ra vào lúc Chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn quyết liệt. 5 thành viên sáng lập cảm thấy bất an trước sự đối đầu của các nước lớn, mong muốn tạo ra một liên kết chính trị và an ninh nhằm đối phó với những bất trắc tại khu vực thời kỳ “hậu Chiến tranh Việt Nam”. Nhưng trong không khí Chiến tranh lạnh bao trùm chính trị thế giới, sự kiện này đã không gây được nhiều sự chú ý.
Nửa thế kỷ trôi qua, ASEAN đã làm nên lịch sử, với ba thành tựu nổi bật nhất:
Đến năm 1999, ASEAN đã thành một tổ chức khu vực gồm 10 quốc gia thành viên, hoạt động dưới mái nhà chung, với 625 triệu dân, thương mại nội khối hơn một nghìn tỷ USD, góp phần quan trọng xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và phát triển.
Từ một khu vực có nhiều điểm khác biệt, các quốc gia xung đột và nghi ngờ lẫn nhau, ASEAN ngày nay là đối tác của phát triển, của hội nhập khu vực và thế giới, dưới một ngọn cờ chung, dựa trên những nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết các bất đồng, xung đột một cách hòa bình, thông qua cơ chế chính thức và không chính thức. Từ một cơ cấu hợp tác tiểu khu vực đã trở thành tổ chức hợp tác khu vực toàn diện, tạo được bản sắc và phương cách riêng, cùng với Cộng đồng châu Âu (EU), là tổ chức khu vực bền vững nhất trong thế giới đương đại.
ASEAN đã đóng góp có ý nghĩa quan trọng vào duy trì môi trường hòa bình và an ninh tại Đông Á, tạo ra các cơ chế thích hợp về chính trị và an ninh, “đóng vai trò dẫn dắt các cơ chế khu vực”, để tất cả các nước liên quan, bao gồm các nước lớn ở châu Á-Thái Bình Dương, đối thoại và hợp tác vì hòa bình và an ninh, trong tình hình châu Á-Thái Bình Dương không ngừng biến đổi và biến động, tạo điều kiện tìm kiếm và xây dựng một cơ cấu an ninh và trật tự khu vực phù hợp với tương quan lực lượng mới.
Hiện tại, ASEAN đứng trước ba thách thức lớn:
Thứ nhất, ASEAN đang bước sang kỷ nguyên mới, với các thách thức trong việc xây dựng Cộng đồng và liên kết nội khối sao cho hiệu quả, thiết thực, có “văn hóa thực thi”, thúc đẩy an sinh xã hội, tăng cường phục vụ lợi ích của người dân các nước thành viên. Điều đáng tiếc, trải qua gần hai thập kỷ phấn đấu, ASEAN vẫn chưa lấp được khoảng cách giữa các thành viên “khá giả” và các thành viên “trình độ phát triển thấp”.
Thứ hai, duy trì liên kết và đoàn kết thực sự, giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ với các nước lớn, vì lợi ích quốc gia mình cũng như lợi ích của cộng đồng ASEAN, không vì cái này mà hy sinh cái kia.
Thứ ba, Đông Nam Á từ thế kỷ 20 đến nay luôn là tiêu điểm của cạnh tranh và giành giật ảnh hưởng giữa các nước lớn – đó vừa là đặc điểm vừa là “định mệnh” của khu vực này do vị trí địa chiến lược đặc biệt của nó.
ASEAN đang đứng trước sự cạnh tranh chiến lược hết sức gay gắt giữa các nước lớn liên quan. Các nước lớn đang tìm cách lợi dụng, tạo ra sự phân cực về mặt chính trị trong tổ chức và phân hóa hàng ngũ ASEAN. Vì vậy, các thành viên cần làm sao để ASEAN giữ vững đoàn kết nhất trí, tích cực, chủ động, có như thế mới phát huy được vai trò trung tâm trong các cơ chế khu vực và giữ cho khu vực này hòa bình, trung lập, ổn định và phát triển.
Cộng đồng ASEAN cần phải tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, nhằm xây dựng thành công một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết và có tiếng nói quan trọng trong các vấn đề khu vực và quốc tế.
Quan trọng hơn cả vẫn là đoàn kết, nhất trí trong nội bộ khối và giữ vững độc lập, tự chủ của tổ chức. Đồng thời, phải làm cho các thành viên và toàn khối mạnh – mạnh về thực lực, mạnh về tổ chức, ta có mạnh thì các nước lớn mới tôn trọng ta, “đếm xỉa” tới ta, và ta mới tham gia được vào cuộc chơi chiến lược giữa các nước lớn, chứ không phải làm con “tốt đen” trên bàn cờ chiến lược ấy.
Giải quyết vấn đề Biển Đông quan trọng đối với hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông, cũng như đối với hòa bình, ổn định của Đông Nam Á. Ngày 6/8, Ngoại trưởng Trung Quốc và Ngoại trưởng của các nước ASEAN đã thông qua dự thảo khung Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Đây là một bước tiến tích cực hướng tới giải quyết hòa bình các tranh chấp trên Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế. Từ kết quả này, các bên cần sớm khởi động đàm phán thực chất COC có hiệu lực và ràng buộc về pháp lý.
Việt Nam gia nhập ASEAN là một sự kiện quan trọng đối với tổ chức khu vực này.
ASEAN có tầm quan trọng chiến lược đối với Việt Nam, là một trong các trụ cột của chính sách đối ngoại của Việt Nam. Các mối quan hệ cộng hưởng tạo ra môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, phục vụ cho an ninh và phát triển của nước ta những thập kỷ vừa qua.
Việt Nam là một thành viên chủ động và tích cực, đóng vai trò nòng cốt trong thúc đẩy đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn. Đồng thời, vai trò này, cũng như những đóng góp chiến lược và cụ thể của Việt Nam cho tổ chức, đã nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển của Việt Nam, củng cố hòa bình, ổn định khu vực.
Các thành viên ASEAN cũng như cộng đồng quốc tế kỳ vọng nhiều về tương lai phát triển và vị thế của Cộng đồng ASEAN trên trường quốc tế.
Chúng ta vừa cần có một tầm nhìn toàn cục, vừa có cách tiếp cận thực tế, phù hợp với đặc điểm của tổ chức khu vực này và thực tiễn tình hình thế giới. Hướng về một Cộng đồng, nhưng cũng không quá kỳ vọng, hiểu rõ hiện thực khách quan liên quan đến Cộng đồng ASEAN và tình hình chính trị, kinh tế phức tạp tại khu vực chúng ta và trên thế giới trong những năm sắp tới. Phải thấy rằng tổ chức ASEAN là một thực thể của đời sống quốc tế, nó và các thành viên chịu tác động của các cường lực. Cộng đồng ASEAN cần điều chỉnh mục tiêu, biện pháp và bước đi cho phù hợp với thực tiễn. Trong trung hạn, cần lấy củng cố nội khối làm trọng tâm.
Việt Nam cần tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, chủ động và tích cực như thời gian qua. Người dân nước ta cần tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của ASEAN, phát huy hiệu quả vai trò trong ASEAN, vì lợi ích của khu vực và của chính Việt Nam./.
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế
(Độc giả có thể đọc bài viết tại: http://baochinhphu.vn/Cong-dong-ASEAN/Vi-mot-cong-dong-ASEAN-vung-manh-doan-ket/313336.vgp)
Xem thêm
|
|
AN NINH ĐÔNG BẮC Á TRONG QUAN HỆ MỸ - TRUNG
Tình hình an ninh Đông Bắc Á bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là yếu tố cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự cạnh tranh này trong những năm gần đây đã đặt an ninh khu vực trước không ít các thách thức đáng lo ngại. Vậy xu hướng an ninh Đông Bắc Á thời gian tới ra sao, nhất là sau khi D.Trump lên nắm quyền Tổng thống Mỹ có sự điều chỉnh quan hệ với các nước trong khu vực, đang là vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm.
Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Bắc Á
Đối với Mỹ
Với chiến lược chuyển trọng tâm sang châu Á - Thái Bình Dương, Đông Bắc Á được xem là một trong những khu vực có vị trí chiến lược, có ý nghĩa “sống còn” đối với lợi ích của Mỹ. Khu vực này có Trung Quốc - một “chướng ngại vật” chủ yếu ngăn cản Mỹ gia tăng ảnh hưởng ở châu Á, có CHDCND Triều Tiên - “sân sau” của Trung Quốc, quốc gia đối địch luôn có những hành động khó lường. Nhưng đồng thời ở đây Mỹ còn có hai đồng minh quan trọng là Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi Mỹ đặt nhiều căn cứ quân sự và là một “gọng kìm” có thể kiềm chế Trung Quốc; có Đài Loan - “lá bài” thường được Mỹ sử dụng để gây sức ép với Trung Quốc về những vấn đề liên quan đến lợi ích của Mỹ ở khu vực. Điều Mỹ cần và buộc phải làm ở khu vực Đông Bắc Á là hóa giải “mối đe dọa từ Trung Quốc” và chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Vì vậy, Mỹ luôn tìm cách giữ quan hệ thân thiết với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nhằm lôi kéo các nước và vùng lãnh thổ này tham gia vào “chuỗi tiền đồn” kiềm chế Trung Quốc.
Mỹ không chỉ ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp với Trung Quốc về đảo Senkaku/Điếu Ngư đã làm cho liên minh Mỹ - Nhật trở nên gắn kết chặt chẽ hơn, mà còn ủng hộ Nhật Bản trong việc giải thích lại Hiến pháp để có một lực lượng quân sự đủ mạnh và thực hiện quyền phòng vệ tập thể với quân đội Mỹ. Trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến thăm Nhật Bản (4-2014), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel nhấn mạnh: “Mỹ hoan nghênh nỗ lực của Nhật Bản nhằm đóng một vai trò chủ động hơn trong liên minh, bao gồm xem xét diễn giải lại Hiến pháp liên quan đến quyền phòng vệ tập thể”[1]. Mỹ đã triển khai hệ thống ra-đa phòng thủ tên lửa X-band thứ hai tại tỉnh miền trung Kyoto của Nhật Bản vào cuối năm 2014. Việc Mỹ thảo luận với Nhật Bản bố trí lại lực lượng quân sự Mỹ đóng tại Okinawa, xem xét lại quan hệ đồng minh đã cho thấy nước này tiếp tục quan tâm đến vấn đề an ninh khu vực trong tình hình mới.
Quan hệ liên minh Mỹ - Hàn được thúc đẩy với việc hai bên ký Hiệp định Tầm nhìn chung về liên minh năm 2009, nhấn mạnh mối quan hệ kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn giữa hai bên. Hiệp định này cũng đã tạo cơ sở cho Mỹ ký Hiệp ước thương mại tự do với Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 3-2012), mà giới phân tích cho là mang tính toàn diện nhất trên thế giới hiện nay. Mối đe dọa từ phía CHDCND Triều Tiên làm cho quan hệ Mỹ - Hàn càng thắt chặt hơn. Các cuộc diễn tập chung hàng năm giữa hai nước phô trương sức mạnh vừa răn đe CHDCND Triều Tiên nhưng cũng là răn đe Trung Quốc. Đặc biệt, Mỹ đã đạt được thỏa thuận về việc triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD)[2] tại Hàn Quốc. Mặc dù, cả Mỹ và Hàn Quốc đều khẳng định hệ thống phòng thủ tên lửa này là một biện pháp đối phó với mối đe dọa từ CHDCND Triều Tiên, song ai cũng thấy rõ, với sự bố trí này, Mỹ sẽ giành nhiều lợi thế trong tương quan lực lượng quân sự với Trung Quốc.
Mỹ cũng luôn tìm cách lôi kéo Đài Loan thông qua những hợp đồng mua bán vũ khí nhằm gia tăng sức mạnh cũng như đảm bảo hậu thuẫn về an ninh. Bằng việc tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, Mỹ đã tạo được sự phụ thuộc nhất định của Đài Loan đối với Mỹ trong nỗ lực chống lại những đe dọa an ninh từ phía đại lục. Hơn nữa, Mỹ tiến hành các biện pháp ngăn chặn không cho chính quyền Đài Loan xích lại gần Trung Quốc đại lục. Mỹ cổ vũ Đài Loan tăng cường quan hệ chặt chẽ với Nhật bản nhằm củng cố mạng lưới đồng minh của Mỹ tại khu vực Đông Bắc Á vững chắc hơn. Đồng thời, Mỹ hỗ trợ chính quyền Đài Loan trong triển khai thực hiện “chính sách hướng Nam mới”, nhằm tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á, Nam Á và Australia, giúp Đài Loan từng bước tránh phụ thuộc vào Trung Quốc đại lục. Bên cạnh đó, Mỹ tái cam kết thực hiện hiệu quả Luật Quan hệ với Đài Loan, nhằm hỗ trợ Đài Loan về vũ khí, trang bị quân sự, thông tin tình báo. Luật Ngân sách quốc phòng tài khóa 2016 của Mỹ quy định: Washington tiếp tục ủng hộ các nỗ lực của Đài Loan trong việc trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại để cân bằng với sức mạnh đang lên của Trung Quốc.
Đối với Trung Quốc.
Trong chính sách đối ngoại “châu biên” của Trung Quốc, Đông Bắc Á giữ vai trò thiết yếu đối với sự phát triển của Trung Quốc. Nhưng khu vực này tồn tại nhiều vướng mắc liên quan đến các vấn đề CHDCND Triều Tiên, Đài Loan, tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản. Mục tiêu của Trung Quốc là xây dựng một khu vực Đông Bắc Á an ninh, đảm bảo an toàn cho công cuộc phát triển của mình. Về kinh tế, Trung Quốc đã vượt lên Nhật Bản trở thành quốc gia đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ vào năm 2010. Nhiều chuyên gia kinh tế còn dự báo, với đà tăng trưởng hiện nay, Trung Quốc có khả năng vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế đứng đầu thế giới trong tương lai. Tiềm lực quân sự của Trung Quốc cũng ngày càng vượt trội với chi phí quốc phòng không ngừng tăng (130 tỷ USD năm 2014, 135 tỷ USD năm 2015, 147 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 152 tỷ USD). Bên cạnh đó, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ kinh tế, thương mại với các nước trong khu vực, tìm cách phá thế kiềm chế của Mỹ. Sáng kiến “Một vành đai, một con đường” đang được triển khai là không ngoài mục đích đó. Với thế và lực mới của mình, Trung Quốc đang nỗ lực phát huy vai trò dẫn dắt trong tất cả các vấn đề khu vực, kể cả trong quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên.
Trong quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc, tuy còn nhiều bất đồng trong vấn đề tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, vấn đề hệ thống phòng thủ tên lửa, song Trung Quốc tích cực thúc đẩy hợp tác, ký các hợp đồng thương mại và nhanh chóng vượt Mỹ để trở thành bạn hàng lớn của hai nước này. Trung Quốc cũng thúc đẩy mạnh mẽ các biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giao lưu nhân văn để thắt chặt quan hệ với Đài Loan, từng bước hướng đến đàm phán chính trị cho vấn đề thống nhất đất nước. Tháng 7-2015 đã diễn ra “cuộc gặp lịch sử” giữa ông Tập Cận Bình, người đứng đầu Trung Quốc đại lục với Mã Anh Cửu, người đứng đầu Đài Loan. Hai bên còn duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, giao lưu ở cấp quan chức cao nhất phụ trách quan hệ hai bờ. Đối với CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc cũng có một số tính toán nhất định. Trong khi Mỹ và Nhật Bản lên án và ráo riết thi hành các biện pháp cấm vận, trừng phạt, Trung Quốc giữ thái độ bình tĩnh hơn, khuyến cáo các bên kiềm chế, không làm cho tình hình căng thẳng thêm và tìm cách đưa CHDCND Triều Tiên trở lại bàn đàm phán.
Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã áp dụng một số biện pháp an ninh cứng rắn đối với các quốc gia trong khu vực, như tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên khu vực tranh chấp ở Biển Hoa Đông với Nhật Bản (2013) nhằm khẳng định sức mạnh và răn đe sự kiềm chế của liên minh Mỹ - Nhật - Hàn đối với Trung Quốc.
An ninh Đông Bắc Á trước cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc ở khu vực
Tiềm ẩn nguy cơ chạy đua vũ trang
Trước chiến lược trở lại châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ và sự trỗi dậy của Trung Quốc ở khu vực cùng với tình trạng bất ổn trên bán đảo Triều Tiên, tình hình an ninh Đông Bắc Á trở nên đáng lo ngại. Để đảm bảo an ninh của mình, các nước và vùng lãnh thổ ở đây đã điều chỉnh chiến lược quốc phòng và hiện đại hóa quân sự nhằm gia tăng sức mạnh quốc gia, dẫn đến nguy cơ diễn ra một cuộc chạy đua vũ trang khu vực.
Trước hết, Nhật Bản đẩy nhanh quá trình trở thành một “quốc gia bình thường” để có đủ thế và lực trên tất cả các phương diện, nhất là về quốc phòng - an ninh. Nhật Bản đã nâng cấp Cục phòng vệ lên thành Bộ Quốc phòng (2007), thành lập Hội đồng An ninh quốc gia theo mô hình Mỹ (2014) và thông qua chiến lược an ninh quốc gia mới (2015). Cốt lõi của chiến lược này là dỡ bỏ lệnh cấm quyền phòng vệ tập thể, tạo điều kiện cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản triển khai các hoạt động quân sự ở nước ngoài. Nhật Bản cũng tiến hành tái bố trí lực lượng và tăng cường mua sắm các trang thiết bị quân sự cho Lực lượng Phòng vệ. Quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép triển khai vệ tinh quân sự, tăng cường vũ khí và các phương tiện hiện đại hàng đầu thế giới như tàu sân bay trực thăng lớp Izumo, tàu ngầm Soryu, tàu khu trục mang tên lửa điều khiển lớp Atago, máy bay MV-22 Osprey của Mỹ... Nhật Bản đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng để mua sắm trang thiết bị vũ khí (42 tỷ USD năm 2015, 41,8 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 46,4 tỷ USD)[3]. Ngoài ra, nước này cũng nới lỏng quy định cấm xuất khẩu vũ khí để mở đường cho các công ty trong nước tham gia các dự án xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài.
Trước những biến động trong khu vực, nhất là việc CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân và tên lửa đã khiến Hàn Quốc tăng cường hơn nữa sức mạnh quân sự và hợp tác với Mỹ về an ninh quốc phòng. Đặc biệt, sau vụ chìm tàu Cheonan tháng 3-2010 và đấu pháo sau đó giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên, phía Hàn Quốc đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng. Mới đây, theo hãng thông tấn Hàn Quốc Yonhap, Hàn Quốc sẽ chi lên 34,7 tỷ USD cho năm tài khóa 2017, đánh dấu 6 năm liên tiếp Seoul tăng ngân sách quốc phòng[4]. Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận với Mỹ về việc phát triển tên lửa đạn đạo tầm bắn lên tới 800km thay cho 300km như trước đây để đối phó với những đe dọa từ phía Bình Nhưỡng và sự gia tăng sức mạnh quân sự trong khu vực. Hàn Quốc cũng đang phát triển tên lửa hành trình siêu thanh có thể tấn công tàu sân bay, tàu khu trục. Nước này cũng dự định đóng thêm tàu khu trục được trang bị hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis (giai đoạn 2023 - 2027) nhằm nâng cao sức mạnh hải quân để ứng phó với nguy cơ tiềm ẩn xung quanh bán đảo Triều Tiên. Không chỉ đầu tư nâng cao sức mạnh của lực lượng hải quân, Hàn Quốc còn dự định đầu tư cho lực lượng không quân bằng kế hoạch mua máy bay chiến đấu F35, nâng cấp khả năng tác chiến cho máy bay F16 và mua thêm máy bay trực thăng, máy bay không người lái của Mỹ.
Đối với CHDCND Triều Tiên, sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đông Bắc Á, đặc biệt là các cuộc tập trận chung hàng năm giữa Mỹ và Hàn Quốc càng kích thích nước này quyết tâm phát triển chương trình hạt nhân và tên lửa. CHDCND Triều Tiên được cho là đã thực hiện 5 vụ thử hạt nhân vào các năm 2006, 2009, 2013, tháng 1 và 9-2016. Các nhà phân tích dự báo, CHDCND Triều Tiên đang chuẩn bị cho việc thử hạt nhân lần thứ 6. Việc CHDCND Triều Tiên thử hạt nhân, tên lửa là một trong những lý do làm cho các nước trong khu vực phải tăng cường phòng thủ bằng cách tích cực mua sắm, nâng cấp vũ khí trang bị, qua đó thúc đẩy việc gia tăng sức mạnh quân sự giữa các quốc gia khu vực Đông Bắc Á.
Đài Loan đã có những hợp đồng mua bán vũ khí với Mỹ để hiện đại hóa, nâng cao khả năng tác chiến của quân đội mà điển hình là vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan với hợp đồng trị giá 6,4 tỷ USD vào năm 2010 và 1,83 tỷ USD vào năm 2015. Bên cạnh đó, Đài Loan thực hiện chương trình nâng cấp máy bay F16, nghiên cứu phát triển hệ thống tên lửa “diệt tàu sân bay”, đồng thời dự định mua thêm máy bay, tàu chiến từ Mỹ và tự đóng mới một số tàu có trang bị tên lửa siêu thanh. Theo tin gần đây nhất, chính quyền mới của Mỹ đã sẵn sàng chuyển giao lô vũ khí hiện đại cho Đài Loan trị giá 1 tỷ USD. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết, sắp tới Đài Loan sẽ chi tới 85,8 triệu USD để tự chế tạo tàu ngầm.
Bán đảo Triều Tiên và Eo biển Đài Loan luôn trong tình trạng đe dọa bất ổn
Bán đảo Triều Tiên chưa bao giờ bình yên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở đây đang tồn tại hai “ngòi nổ” là vấn đề vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và quan hệ đối đầu Bắc-Nam. Vấn đề hạt nhân ở đây rất phức tạp và đã kéo dài nhiều năm, vì nó liên quan tới lợi ích của nhiều nước trong “bàn cờ” chiến lược ở Đông Bắc Á và thế giới. Những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng nhiều nhất đến tình hình bán đảo Triều Tiên là Trung Quốc và Mỹ. Đối với Trung Quốc, sự ổn định của CHDCND Triều Tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích an ninh của Trung Quốc. Một kho vũ khí hạt nhân tồn tại cạnh sườn không những sẽ đe dọa trực tiếp đến an ninh Trung Quốc, mà còn là cái cớ để Mỹ can dự vào khu vực và cùng các đồng minh Hàn Quốc, Nhật Bản triển khai các hệ thống ngăn chặn mà thực tế là phòng tuyến bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với Mỹ, sự lớn mạnh của Liên Xô trước đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện tại, sự phát triển thần kỳ một thời của Nhật Bản… luôn là những lý do để Mỹ đứng chân ở đây và luôn coi Triều Tiên là “tiền duyên chiến lược” nhằm khống chế Đông Bắc Á. Mặc dù Mỹ coi CHDCND Triều Tiên là mối đe dọa an ninh đối với Mỹ và các đồng minh trong khu vực, nhưng một bán đảo Triều Tiên thống nhất và ổn định chưa hẳn là lợi ích của Mỹ vì lúc đó quân đội Mỹ không còn lý do ở lại bán đảo Triều Tiên và Đông Bắc Á. Điều này giải thích tại sao Triều Tiên lấy lý do phải đối phó với mối đe dọa của Mỹ để phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng các cuộc tập trận chung giữa Mỹ và Hàn Quốc nhằm vào Triều Tiên vẫn diễn ra hàng năm với quy mô ngày càng lớn, càng kích động nước này quyết tâm theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân. Cứ như thế tình hình ngày càng leo thang. Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã đi vào bế tắc nhiều năm nay và ngày càng trở nên nguy hiểm, các biện pháp trừng phạt của Liên hợp quốc cũng không mang lại hiệu quả. Sự bế tắc này suy cho cùng là do tính toán lợi ích chiến lược của các nước có liên quan.
An ninh tại Eo biển Đài Loan phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ có tính ràng buộc và quy định lẫn nhau giữa Mỹ - Trung Quốc - Đài Loan. Quan điểm nhất quán của Trung Quốc coi Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc và tìm mọi cách để thống nhất Đài Loan với đại lục theo sáng kiến một nước hai chế độ. Theo “Luật chống chia cắt đất nước” của Trung Quốc thông qua năm 2005, nếu hòn đảo này có ý định độc lập, Trung Quốc sẵn sàng sử dụng biện pháp “phi hòa bình”. Trong khi đó, do vị trí địa chiến lược quan trọng của Đài Loan, một mặt Mỹ giữ lập trường “một Trung Quốc”, tức không công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập để duy trì quan hệ với Trung Quốc, mặt khác tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan để giữ Đài Loan trong vòng tay của mình và kiềm chế Trung Quốc. Do đó, mỗi khi Mỹ và Đài Loan ký hợp đồng mua bán vũ khí, an ninh tại eo biển này lại dậy sóng, quan hệ Trung-Mỹ lại căng thẳng. Trung Quốc cho rằng, việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan là hành động “can thiệp nội bộ của Trung Quốc”, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ “hai bờ”, đồng thời tuyên bố sẽ áp dụng “biện pháp cần thiết” đáp trả Mỹ. Sự bất ổn ở eo biển Đài Loan còn phụ thuộc vào thái độ của nhà cầm quyền Đài Loan đối với đại lục. Dân tiến đảng và Quốc dân đảng là hai đảng thay nhau cầm quyền ở Đài Loan lại có quan điểm khác nhau khá xa về quan hệ hai bờ. Hiện nay bà Thái Anh Văn của Dân tiến đảng đang lãnh đạo hòn đảo này có thái độ cứng rắn hơn với đại lục so với ông Mã Anh cửu của Quốc dân đảng trước đây.
Khu vực Đông Bắc Á tồn tại các tranh chấp chủ quyền biển đảo như tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku[5] giữa Trung Quốc và Nhật Bản, tranh chấp đảo Dokdo/Takeshima[6] giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, tranh chấp bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo[7] giữa Trung Quốc và Hàn Quốc... diễn ra trong nhiều thập kỷ đã trở thành điểm nóng tiềm tàng trong khu vực. Những năm gần đây, các tranh chấp này có dấu hiệu gia tăng trước sự trỗi dậy về kinh tế, quân sự cùng với chiến lược biển đầy tham vọng của Trung Quốc và sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ. Tình hình này đã đặt khu vực Đông Bắc Á trong trạng thái bên bờ của các cuộc xung đột quân sự.Tranh chấp chủ quyền biển đảo diễn ra ngày càng quyết liệt.
Tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Nhật Bản và Trung Quốc bùng phát vào năm 2012 sau sự kiện Chính phủ Nhật Bản tuyên bố mua 3 trong số 5 hòn đảo thuộc nhóm đảo trên từ sở hữu tư nhân. Phía Trung Quốc phản ứng gay gắt cả trên phương diện chính trị và ngoại giao, coi đây là cuộc “khủng hoảng Điếu Ngư”. Kể từ đó đến nay, một loạt các diễn biến căng thẳng trong tranh chấp giữa hai nước liên tục diễn ra. Phía Trung Quốc bên cạnh việc đưa ra những lời đe dọa, cảnh báo Nhật Bản, nước này thường xuyên đưa tàu thuyền dân sự, quân sự ra uy hiếp ở khu vực tranh chấp. Đáp lại, Nhật Bản cũng tuyên bố sẵn sàng sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ Senkaku nếu quần đảo này bị Trung Quốc xâm phạm.
Tranh chấp đảo Dokdo/Takeshima trở nên căng thẳng nhất sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak tới hòn đảo này tháng 8/2012. Ông Lee là tổng thống Hàn Quốc đầu tiên đặt chân đến đảo Dokdo/Takeshima từ khi tranh chấp giữa hai nước xung quanh nhóm đảo bắt đầu cách đây vài thập kỷ. Sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc, quan hệ Hàn Quốc và Nhật Bản xấu đi rõ rệt. Nhật Bản dự kiến đưa Seoul ra tòa án quốc tế với mong muốn nhằm giải quyết tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, tuy nhiên, giới chức Hàn Quốc khẳng định nước này sẽ không chấp thuận đề nghị trên.
Tranh chấp bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo giữa Trung Quốc và Hàn Quốc cũng nổi lên sau khi Trung Quốc đơn phương thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông (11-2013) bao trùm cả bãi đá này. Ngay lập tức, Hàn Quốc phản ứng quyết liệt. Đồng thời, Hàn Quốc cũng tuyên bố mở rộng ADIZ của nước này, bao gồm cả bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo. Gần đây, căng thẳng giữa Seoul và Bắc Kinh có chiều hướng gia tăng sau khi Hàn Quốc chấp thuận cho Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD trên lãnh thổ nước này. Tháng 8-2016, các máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã bay vào ADIZ chồng lấn giữa hai nước mà không thông báo trước khiến quân đội Hàn Quốc điều máy bay chiến đấu “hộ tống” các máy bay của Trung Quốc ra khỏi khu vực. Hiện Trung Quốc thường xuyên điều máy bay giám sát xung quanh bãi đá ngầm tranh chấp, còn Hàn Quốc cũng đã triển khai tàu lớn có khả năng hỗ trợ trực thăng gần khu vực này, với tần suất bay giám sát trên không 3-4 lần/tuần.
Có thể thấy, những năm gần đây, các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực Đông Bắc Á không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự. Bên cạnh sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Mỹ càng tăng cường can dự đối với khu vực thông qua thúc đẩy hợp tác và đảm bảo ô an ninh cho các đồng minh, một mặt vì lợi ích chiến lược của Mỹ, mặt khác, với các đồng minh có thể coi đây là sự hậu thuẫn để đối phó với Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo. Vì thế, an ninh Đông Bắc Á vốn luôn trong tình trạng bất ổn càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.
Xu hướng an ninh Đông Bắc Á thời gian tới
Thời gian gần đây, thế giới diễn biến càng khó lường. Đặc biệt việc D.Trump đắc cử Tổng thống Mỹ đã làm đảo lộn tất cả những nguyên tắc vốn định hình nền chính trị Mỹ và quan hệ giữa Mỹ và thế giới. Đến nay tất cả vẫn chưa định hình, mọi dự báo lúc này không khác gì giải một bài toán còn thiếu quá nhiều dữ kiện. Đã có những lúc nhiều chuyên gia cho rằng, hai cường quốc thế giới Mỹ và Trung Quốc có nguy cơ rơi vào một cuộc đối đầu nguy hiểm, theo đó tình hình an ninh Đông Bắc Á tiềm ẩn nguy cơ bùng phát xung đột quân sự. Nhưng ngay sau đó lại có những thay đổi đầy kịch tính.
Về vấn đề Đài Loan, khi mới đắc cử, Tổng thống D.Trump cho rằng, cần phải xem xét lại lập trường “một Trung Quốc”, ông điện đàm với lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn, khiến Trung Quốc nổi giận. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã trao công hàm phản đối vì cho rằng Mỹ đã không tôn trọng nguyên tắc “một Trung Quốc” mà hai bên đã thỏa thuận mấy chục năm nay, đồng thời đưa máy bay ném bom, tàu sân bay Liêu Ninh hoạt động quanh Đài Loan. Không lâu sau, Tổng thống D.Trump lại gửi thư chúc Tết và điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình và nhấn mạnh tôn trọng chính sách “một Trung Quốc”, làm dịu bớt những căng thẳng trong quan hệ hai nước về vấn đề Đài Loan. Tuy nhiên, mới đây báo chí lại đưa tin, chính quyền của Tổng thống Mỹ D.Trump đang chuẩn bị chuyển giao lô vũ khí hiện đại, trị giá 1 tỷ USD cho Đài Loan, có thể làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ hai bờ.
Việc CHDCND Triều Tiên liên tiếp phóng thử tên lửa cũng đẩy an ninh khu vực vào “vòng tuần hoàn xấu”. Đầu tiên, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ký Hiệp định chia sẻ tin tức tình báo quân sự (11-2016). Sau khi ký kết hiệp định này, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể chia sẻ tin tức tình báo quân sự mà không phải thông qua Mỹ. Tiếp đó, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản tăng cường sự hiện diện quân sự, mở rộng quy mô diễn tập quân sự. Mỹ cũng đổ trách nhiệm cho Trung Quốc đã không tích cực trong việc kiềm chế Bình Nhưỡng phát triển chương trình hạt nhân. Đáng chú ý, sau khi CHDCND Triều Tiên phóng thử 4 tên lửa ngày 6-3-2017, Mỹ lập tức triển khai 2 bệ phóng của hệ thống THAAD đến căn cứ không quân Osan, Hàn Quốc. Mặc dù trong kế hoạch, THAAD không được đưa đến Nhật Bản nhưng nhiều phân tích cho rằng, việc CHDCND Triều Tiên liên tục phóng tên lửa có thể khiến Tokyo cân nhắc một cách nghiêm túc hơn việc sử dụng hệ thống này. Trước khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ đầu tiên kể từ sau khi D.Trump nhậm chức Tổng thống, mà ở đó dự kiến vấn đề Triều Tiên sẽ là một chủ đề chính, Triều Tiên lại tiếp tục thử tiên lửa như là một hành động thách thức hai cường quốc có ảnh hưởng nhất đối với khu vực này. Tình hình căng thẳng ở Đông Bắc Á lại bị đẩy lên một nấc thang mới. Cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ gần như không đạt được tiến bộ nào về vấn đề chương trình hạt nhân của Triều Tiên ngoài việc hai bên đều cho rằng nó đã đạt tới “giai đoạn nghiêm trọng”. Thêm vào đó, vào đúng thời điểm diễn ra cuộc gặp nhạy cảm này, Tổng thống D.Trump ra lệnh phóng gần 60 quả tên lửa hành trình Tomahawk vào sân bay quân sự Syria, như là một thông điệp răn đe rằng, nếu Trung Quốc không hợp tác, Mỹ sẵn sàng hành động đơn phương và không loại trừ giải pháp quân sự đối với Triều Tiên. Tuy nhiên nếu tình huống này xẩy ra, CHDCND Triều Tiên không cam chịu cúi đầu, có thể Seoul và Nhật Bản sẽ là mục tiêu tấn công đầu tiên của Triều Tiên. Hơn nữa Trung Quốc không thể khoanh tay đứng nhìn, tai họa sẽ lan ra toàn bộ khu vực Đông Bắc Á, hậu quả khó lường. Khả năng này khó đoán định bởi quyền quyết định nằm trong tay Tổng thống D.Trump, một nhân vật có tính khí thất thường, khó đoán định.
Trên thực tế, Trung Quốc đã có những nhượng bộ nhất định như việc cấm nhập khẩu than đá của CHDCND Triều Tiên cho tới hết năm 2017. Hành động này của Trung Quốc mang ý nghĩa gửi đi thông điệp cảnh báo mạnh mẽ tới CHDCND Triều Tiên, bởi than đá là mặt hàng xuất khẩu chính và chiếm tới 90% hoạt động thương mại của Bình Nhưỡng. Đây còn là thông điệp gửi tới Tổng thống D.Trump bởi nhà lãnh đạo Mỹ nhiều lần chỉ trích Trung Quốc chưa tích cực kiềm chế tham vọng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Nhưng nếu Mỹ đòi hỏi nhiều hơn ở Trung Quốc là điều không thực tế, bởi một mặt Trung Quốc không thể làm cho chế độ CHDCND Triều Tiên lâm vào khủng hoảng, mặt khác trên thực tế khả năng kiềm chế của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng là rất có hạn.
Liên quan đến bán đảo Triều Tiên, tình hình căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đang tiếp tục leo thang do việc Mỹ và Hàn Quốc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Vấn đề này cũng là một ẩn số khó dự báo bởi tình hình nội bộ Hàn Quốc đang thời điểm phức tạp, không loại trừ khả năng Tổng thống đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 5 tới có lập trường khác biệt về vấn đề này. Trong trường hợp đó, tình hình có thể thay đổi hoàn toàn.
Tình hình biển Hoa Đông cũng tiếp tục được coi là điểm nóng trong khu vực. Trong chuyến thăm Nhật Bản tháng 2-2017, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis khẳng định, Chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ giữ nguyên cam kết bảo vệ Nhật Bản với tư cách một đối tác theo Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, trong đó bao gồm cả quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Điều 5 của Hiệp ước nêu rõ, lực lượng của Mỹ và Nhật Bản sẽ phối hợp đáp trả bất cứ cuộc tấn công nào nhằm vào lãnh thổ do Nhật Bản kiểm soát. Giáo sư Viện quan hệ quốc tế thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc Zhou Yongsheng nhận định: “Tuyên bố đảo Điếu Ngư cũng thuộc diện theo Điều 5 (Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật) là dấu hiệu cho thấy chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ tiếp tục chiến lược xoay trục sang châu Á có từ thời chính quyền tiền nhiệm, và đó là tin xấu cho Bắc Kinh. Điều này có nghĩa là chính quyền Tổng thống D.Trump sẽ không chỉ thừa hưởng chiến lược xoay trục sang châu Á mà thậm chí còn đưa nó lên một tầm mới”[8].
Hiện quan hệ Mỹ - Trung xung quanh vấn đề Đông Bắc Á đang tồn tại nhiều mâu thuẫn và hết sức căng thẳng. Tuy nhiên có thể thấy rõ, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai cường quốc này vẫn chiếm ưu thế. Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc, chiếm gần 20% xuất khẩu của Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc chiếm 9% hàng hóa xuất khẩu của Mỹ. Trên lĩnh vực tài chính, hai nước liên quan mật thiết với nhau. Dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có khoảng hơn 3.000 tỷ USD và nước này vẫn tiếp tục đầu tư vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Nếu mối quan hệ giữa hai siêu cường này đổ vỡ, Mỹ sẽ khó tìm nguồn tài trợ cho khoản nợ trên thị trường tài chính nước ngoài. Trung Quốc là chủ nợ số một của Mỹ, giữ gần 7% nợ công của Mỹ, khoảng 1.250 tỷ USD. Ngay cả tập đoàn kinh tế của Tổng thống D.Trump và của con gái ông cũng có quan hệ làm ăn mật thiết với Trung Quốc. Vì thế, người ta cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tìm cách kiềm chế, không để quan hệ hai nước rơi vào tình trạng khủng hoảng và nhiều khả năng an ninh Đông Bắc Á vẫn tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát.
Tóm lại, có thể thấy rằng, tình hình Đông Bắc Á thời gian tới tiếp tục có nhiều biến động, thỏa hiệp - cạnh tranh đan xen nhau và chịu sự chi phối sâu sắc của quan hệ Mỹ - Trung. Mặc dù chính sách đối ngoại mới của Mỹ chưa hình thành rõ nét, song xu hướng đẩy mạnh can dự vào châu Á - Thái Bình Dương nói chung, Đông Bắc Á nói riêng vẫn là xu hướng chính. Đa số các nhà phân tích cho rằng, cụm từ “tái cân bằng” không còn được các quan chức dưới chính quyền D.Trump sử dụng, song điều đó cũng sẽ không thay đổi những lợi ích quốc gia cơ bản của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương như việc duy trì các đồng minh, thương mại và đầu tư, tự do hàng hải và hàng không. Do đó, tình trạng gia tăng sức mạnh quân sự, tranh chấp chủ quyền biển đảo và cạnh tranh tại các điểm nóng ở Đông Bắc Á sẽ tiếp tục diễn ra gay gắt, nhưng ít có khả năng bùng phát thành xung đột vũ trang giữa các bên./.
[1] An ninh Đông Bắc Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ, TS Hoàng Minh Hằng, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, NXB khoa học xã hội 2015
[2] THAAD là hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung trong giai đoạn cuối của chuyến bay. Hệ thống radar mà THAAD sử dụng thuộc loại radar quét mạng pha điện tử chủ động (AESA) có khả năng nhận dạng mục tiêu rất cao. Radar có tầm trinh sát khoảng 1.000 km, có thể mở rộng lên đến 4.000 km.
[3] Nhật Bản tăng chi tiêu quốc phòng kỷ lục trong năm 2017, Báo Quân đội Nhân dân, ngày 2-12-2016.
[4] Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11-3-2017.
[5] Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku là nhóm đảo nhỏ nằm cách đảo chính của tỉnh Okinawa của Nhật Bản khoảng 40km về phía tây và hiện do Nhật Bản kiểm soát, nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và thường xuyên đưa tàu hoặc máy bay đến vùng biển xung quanh quần đảo này.
[6] Đảo Dokdo/Takeshima nằm ở vùng biển phía đông bán đảo Triều Tiên, có diện tích khoảng 0,18 km vuông. Hàn Quốc và Nhật Bản đều tuyên bố chủ quyền. Hiện Hàn Quốc kiểm soát thực tế hòn đảo này.
[7] Bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo nằm cách đảo Jeru của Hàn Quốc khoảng 150km về phía Tây Nam do Hàn Quốc quản lý, Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền với đảo đá này.
[8] Mỹ sẽ đứng về phía Nhật trong tranh chấp ở Hoa Đông, www.dantri.com.vn, ngày 4-2-2017.
Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Bắc Á
Đối với Mỹ
Với chiến lược chuyển trọng tâm sang châu Á - Thái Bình Dương, Đông Bắc Á được xem là một trong những khu vực có vị trí chiến lược, có ý nghĩa “sống còn” đối với lợi ích của Mỹ. Khu vực này có Trung Quốc - một “chướng ngại vật” chủ yếu ngăn cản Mỹ gia tăng ảnh hưởng ở châu Á, có CHDCND Triều Tiên - “sân sau” của Trung Quốc, quốc gia đối địch luôn có những hành động khó lường. Nhưng đồng thời ở đây Mỹ còn có hai đồng minh quan trọng là Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi Mỹ đặt nhiều căn cứ quân sự và là một “gọng kìm” có thể kiềm chế Trung Quốc; có Đài Loan - “lá bài” thường được Mỹ sử dụng để gây sức ép với Trung Quốc về những vấn đề liên quan đến lợi ích của Mỹ ở khu vực. Điều Mỹ cần và buộc phải làm ở khu vực Đông Bắc Á là hóa giải “mối đe dọa từ Trung Quốc” và chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Vì vậy, Mỹ luôn tìm cách giữ quan hệ thân thiết với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nhằm lôi kéo các nước và vùng lãnh thổ này tham gia vào “chuỗi tiền đồn” kiềm chế Trung Quốc.
Mỹ không chỉ ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp với Trung Quốc về đảo Senkaku/Điếu Ngư đã làm cho liên minh Mỹ - Nhật trở nên gắn kết chặt chẽ hơn, mà còn ủng hộ Nhật Bản trong việc giải thích lại Hiến pháp để có một lực lượng quân sự đủ mạnh và thực hiện quyền phòng vệ tập thể với quân đội Mỹ. Trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến thăm Nhật Bản (4-2014), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel nhấn mạnh: “Mỹ hoan nghênh nỗ lực của Nhật Bản nhằm đóng một vai trò chủ động hơn trong liên minh, bao gồm xem xét diễn giải lại Hiến pháp liên quan đến quyền phòng vệ tập thể”[1]. Mỹ đã triển khai hệ thống ra-đa phòng thủ tên lửa X-band thứ hai tại tỉnh miền trung Kyoto của Nhật Bản vào cuối năm 2014. Việc Mỹ thảo luận với Nhật Bản bố trí lại lực lượng quân sự Mỹ đóng tại Okinawa, xem xét lại quan hệ đồng minh đã cho thấy nước này tiếp tục quan tâm đến vấn đề an ninh khu vực trong tình hình mới.
Quan hệ liên minh Mỹ - Hàn được thúc đẩy với việc hai bên ký Hiệp định Tầm nhìn chung về liên minh năm 2009, nhấn mạnh mối quan hệ kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn giữa hai bên. Hiệp định này cũng đã tạo cơ sở cho Mỹ ký Hiệp ước thương mại tự do với Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 3-2012), mà giới phân tích cho là mang tính toàn diện nhất trên thế giới hiện nay. Mối đe dọa từ phía CHDCND Triều Tiên làm cho quan hệ Mỹ - Hàn càng thắt chặt hơn. Các cuộc diễn tập chung hàng năm giữa hai nước phô trương sức mạnh vừa răn đe CHDCND Triều Tiên nhưng cũng là răn đe Trung Quốc. Đặc biệt, Mỹ đã đạt được thỏa thuận về việc triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD)[2] tại Hàn Quốc. Mặc dù, cả Mỹ và Hàn Quốc đều khẳng định hệ thống phòng thủ tên lửa này là một biện pháp đối phó với mối đe dọa từ CHDCND Triều Tiên, song ai cũng thấy rõ, với sự bố trí này, Mỹ sẽ giành nhiều lợi thế trong tương quan lực lượng quân sự với Trung Quốc.
Mỹ cũng luôn tìm cách lôi kéo Đài Loan thông qua những hợp đồng mua bán vũ khí nhằm gia tăng sức mạnh cũng như đảm bảo hậu thuẫn về an ninh. Bằng việc tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, Mỹ đã tạo được sự phụ thuộc nhất định của Đài Loan đối với Mỹ trong nỗ lực chống lại những đe dọa an ninh từ phía đại lục. Hơn nữa, Mỹ tiến hành các biện pháp ngăn chặn không cho chính quyền Đài Loan xích lại gần Trung Quốc đại lục. Mỹ cổ vũ Đài Loan tăng cường quan hệ chặt chẽ với Nhật bản nhằm củng cố mạng lưới đồng minh của Mỹ tại khu vực Đông Bắc Á vững chắc hơn. Đồng thời, Mỹ hỗ trợ chính quyền Đài Loan trong triển khai thực hiện “chính sách hướng Nam mới”, nhằm tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á, Nam Á và Australia, giúp Đài Loan từng bước tránh phụ thuộc vào Trung Quốc đại lục. Bên cạnh đó, Mỹ tái cam kết thực hiện hiệu quả Luật Quan hệ với Đài Loan, nhằm hỗ trợ Đài Loan về vũ khí, trang bị quân sự, thông tin tình báo. Luật Ngân sách quốc phòng tài khóa 2016 của Mỹ quy định: Washington tiếp tục ủng hộ các nỗ lực của Đài Loan trong việc trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại để cân bằng với sức mạnh đang lên của Trung Quốc.
Đối với Trung Quốc.
Trong chính sách đối ngoại “châu biên” của Trung Quốc, Đông Bắc Á giữ vai trò thiết yếu đối với sự phát triển của Trung Quốc. Nhưng khu vực này tồn tại nhiều vướng mắc liên quan đến các vấn đề CHDCND Triều Tiên, Đài Loan, tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản. Mục tiêu của Trung Quốc là xây dựng một khu vực Đông Bắc Á an ninh, đảm bảo an toàn cho công cuộc phát triển của mình. Về kinh tế, Trung Quốc đã vượt lên Nhật Bản trở thành quốc gia đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ vào năm 2010. Nhiều chuyên gia kinh tế còn dự báo, với đà tăng trưởng hiện nay, Trung Quốc có khả năng vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế đứng đầu thế giới trong tương lai. Tiềm lực quân sự của Trung Quốc cũng ngày càng vượt trội với chi phí quốc phòng không ngừng tăng (130 tỷ USD năm 2014, 135 tỷ USD năm 2015, 147 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 152 tỷ USD). Bên cạnh đó, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ kinh tế, thương mại với các nước trong khu vực, tìm cách phá thế kiềm chế của Mỹ. Sáng kiến “Một vành đai, một con đường” đang được triển khai là không ngoài mục đích đó. Với thế và lực mới của mình, Trung Quốc đang nỗ lực phát huy vai trò dẫn dắt trong tất cả các vấn đề khu vực, kể cả trong quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên.
Trong quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc, tuy còn nhiều bất đồng trong vấn đề tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, vấn đề hệ thống phòng thủ tên lửa, song Trung Quốc tích cực thúc đẩy hợp tác, ký các hợp đồng thương mại và nhanh chóng vượt Mỹ để trở thành bạn hàng lớn của hai nước này. Trung Quốc cũng thúc đẩy mạnh mẽ các biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giao lưu nhân văn để thắt chặt quan hệ với Đài Loan, từng bước hướng đến đàm phán chính trị cho vấn đề thống nhất đất nước. Tháng 7-2015 đã diễn ra “cuộc gặp lịch sử” giữa ông Tập Cận Bình, người đứng đầu Trung Quốc đại lục với Mã Anh Cửu, người đứng đầu Đài Loan. Hai bên còn duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, giao lưu ở cấp quan chức cao nhất phụ trách quan hệ hai bờ. Đối với CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc cũng có một số tính toán nhất định. Trong khi Mỹ và Nhật Bản lên án và ráo riết thi hành các biện pháp cấm vận, trừng phạt, Trung Quốc giữ thái độ bình tĩnh hơn, khuyến cáo các bên kiềm chế, không làm cho tình hình căng thẳng thêm và tìm cách đưa CHDCND Triều Tiên trở lại bàn đàm phán.
Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã áp dụng một số biện pháp an ninh cứng rắn đối với các quốc gia trong khu vực, như tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên khu vực tranh chấp ở Biển Hoa Đông với Nhật Bản (2013) nhằm khẳng định sức mạnh và răn đe sự kiềm chế của liên minh Mỹ - Nhật - Hàn đối với Trung Quốc.
An ninh Đông Bắc Á trước cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc ở khu vực
Tiềm ẩn nguy cơ chạy đua vũ trang
Trước chiến lược trở lại châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ và sự trỗi dậy của Trung Quốc ở khu vực cùng với tình trạng bất ổn trên bán đảo Triều Tiên, tình hình an ninh Đông Bắc Á trở nên đáng lo ngại. Để đảm bảo an ninh của mình, các nước và vùng lãnh thổ ở đây đã điều chỉnh chiến lược quốc phòng và hiện đại hóa quân sự nhằm gia tăng sức mạnh quốc gia, dẫn đến nguy cơ diễn ra một cuộc chạy đua vũ trang khu vực.
Trước hết, Nhật Bản đẩy nhanh quá trình trở thành một “quốc gia bình thường” để có đủ thế và lực trên tất cả các phương diện, nhất là về quốc phòng - an ninh. Nhật Bản đã nâng cấp Cục phòng vệ lên thành Bộ Quốc phòng (2007), thành lập Hội đồng An ninh quốc gia theo mô hình Mỹ (2014) và thông qua chiến lược an ninh quốc gia mới (2015). Cốt lõi của chiến lược này là dỡ bỏ lệnh cấm quyền phòng vệ tập thể, tạo điều kiện cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản triển khai các hoạt động quân sự ở nước ngoài. Nhật Bản cũng tiến hành tái bố trí lực lượng và tăng cường mua sắm các trang thiết bị quân sự cho Lực lượng Phòng vệ. Quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép triển khai vệ tinh quân sự, tăng cường vũ khí và các phương tiện hiện đại hàng đầu thế giới như tàu sân bay trực thăng lớp Izumo, tàu ngầm Soryu, tàu khu trục mang tên lửa điều khiển lớp Atago, máy bay MV-22 Osprey của Mỹ... Nhật Bản đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng để mua sắm trang thiết bị vũ khí (42 tỷ USD năm 2015, 41,8 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 46,4 tỷ USD)[3]. Ngoài ra, nước này cũng nới lỏng quy định cấm xuất khẩu vũ khí để mở đường cho các công ty trong nước tham gia các dự án xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài.
Trước những biến động trong khu vực, nhất là việc CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân và tên lửa đã khiến Hàn Quốc tăng cường hơn nữa sức mạnh quân sự và hợp tác với Mỹ về an ninh quốc phòng. Đặc biệt, sau vụ chìm tàu Cheonan tháng 3-2010 và đấu pháo sau đó giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên, phía Hàn Quốc đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng. Mới đây, theo hãng thông tấn Hàn Quốc Yonhap, Hàn Quốc sẽ chi lên 34,7 tỷ USD cho năm tài khóa 2017, đánh dấu 6 năm liên tiếp Seoul tăng ngân sách quốc phòng[4]. Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận với Mỹ về việc phát triển tên lửa đạn đạo tầm bắn lên tới 800km thay cho 300km như trước đây để đối phó với những đe dọa từ phía Bình Nhưỡng và sự gia tăng sức mạnh quân sự trong khu vực. Hàn Quốc cũng đang phát triển tên lửa hành trình siêu thanh có thể tấn công tàu sân bay, tàu khu trục. Nước này cũng dự định đóng thêm tàu khu trục được trang bị hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis (giai đoạn 2023 - 2027) nhằm nâng cao sức mạnh hải quân để ứng phó với nguy cơ tiềm ẩn xung quanh bán đảo Triều Tiên. Không chỉ đầu tư nâng cao sức mạnh của lực lượng hải quân, Hàn Quốc còn dự định đầu tư cho lực lượng không quân bằng kế hoạch mua máy bay chiến đấu F35, nâng cấp khả năng tác chiến cho máy bay F16 và mua thêm máy bay trực thăng, máy bay không người lái của Mỹ.
Đối với CHDCND Triều Tiên, sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đông Bắc Á, đặc biệt là các cuộc tập trận chung hàng năm giữa Mỹ và Hàn Quốc càng kích thích nước này quyết tâm phát triển chương trình hạt nhân và tên lửa. CHDCND Triều Tiên được cho là đã thực hiện 5 vụ thử hạt nhân vào các năm 2006, 2009, 2013, tháng 1 và 9-2016. Các nhà phân tích dự báo, CHDCND Triều Tiên đang chuẩn bị cho việc thử hạt nhân lần thứ 6. Việc CHDCND Triều Tiên thử hạt nhân, tên lửa là một trong những lý do làm cho các nước trong khu vực phải tăng cường phòng thủ bằng cách tích cực mua sắm, nâng cấp vũ khí trang bị, qua đó thúc đẩy việc gia tăng sức mạnh quân sự giữa các quốc gia khu vực Đông Bắc Á.
Đài Loan đã có những hợp đồng mua bán vũ khí với Mỹ để hiện đại hóa, nâng cao khả năng tác chiến của quân đội mà điển hình là vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan với hợp đồng trị giá 6,4 tỷ USD vào năm 2010 và 1,83 tỷ USD vào năm 2015. Bên cạnh đó, Đài Loan thực hiện chương trình nâng cấp máy bay F16, nghiên cứu phát triển hệ thống tên lửa “diệt tàu sân bay”, đồng thời dự định mua thêm máy bay, tàu chiến từ Mỹ và tự đóng mới một số tàu có trang bị tên lửa siêu thanh. Theo tin gần đây nhất, chính quyền mới của Mỹ đã sẵn sàng chuyển giao lô vũ khí hiện đại cho Đài Loan trị giá 1 tỷ USD. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết, sắp tới Đài Loan sẽ chi tới 85,8 triệu USD để tự chế tạo tàu ngầm.
Bán đảo Triều Tiên và Eo biển Đài Loan luôn trong tình trạng đe dọa bất ổn
Bán đảo Triều Tiên chưa bao giờ bình yên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở đây đang tồn tại hai “ngòi nổ” là vấn đề vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và quan hệ đối đầu Bắc-Nam. Vấn đề hạt nhân ở đây rất phức tạp và đã kéo dài nhiều năm, vì nó liên quan tới lợi ích của nhiều nước trong “bàn cờ” chiến lược ở Đông Bắc Á và thế giới. Những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng nhiều nhất đến tình hình bán đảo Triều Tiên là Trung Quốc và Mỹ. Đối với Trung Quốc, sự ổn định của CHDCND Triều Tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích an ninh của Trung Quốc. Một kho vũ khí hạt nhân tồn tại cạnh sườn không những sẽ đe dọa trực tiếp đến an ninh Trung Quốc, mà còn là cái cớ để Mỹ can dự vào khu vực và cùng các đồng minh Hàn Quốc, Nhật Bản triển khai các hệ thống ngăn chặn mà thực tế là phòng tuyến bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với Mỹ, sự lớn mạnh của Liên Xô trước đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện tại, sự phát triển thần kỳ một thời của Nhật Bản… luôn là những lý do để Mỹ đứng chân ở đây và luôn coi Triều Tiên là “tiền duyên chiến lược” nhằm khống chế Đông Bắc Á. Mặc dù Mỹ coi CHDCND Triều Tiên là mối đe dọa an ninh đối với Mỹ và các đồng minh trong khu vực, nhưng một bán đảo Triều Tiên thống nhất và ổn định chưa hẳn là lợi ích của Mỹ vì lúc đó quân đội Mỹ không còn lý do ở lại bán đảo Triều Tiên và Đông Bắc Á. Điều này giải thích tại sao Triều Tiên lấy lý do phải đối phó với mối đe dọa của Mỹ để phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng các cuộc tập trận chung giữa Mỹ và Hàn Quốc nhằm vào Triều Tiên vẫn diễn ra hàng năm với quy mô ngày càng lớn, càng kích động nước này quyết tâm theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân. Cứ như thế tình hình ngày càng leo thang. Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã đi vào bế tắc nhiều năm nay và ngày càng trở nên nguy hiểm, các biện pháp trừng phạt của Liên hợp quốc cũng không mang lại hiệu quả. Sự bế tắc này suy cho cùng là do tính toán lợi ích chiến lược của các nước có liên quan.
An ninh tại Eo biển Đài Loan phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ có tính ràng buộc và quy định lẫn nhau giữa Mỹ - Trung Quốc - Đài Loan. Quan điểm nhất quán của Trung Quốc coi Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc và tìm mọi cách để thống nhất Đài Loan với đại lục theo sáng kiến một nước hai chế độ. Theo “Luật chống chia cắt đất nước” của Trung Quốc thông qua năm 2005, nếu hòn đảo này có ý định độc lập, Trung Quốc sẵn sàng sử dụng biện pháp “phi hòa bình”. Trong khi đó, do vị trí địa chiến lược quan trọng của Đài Loan, một mặt Mỹ giữ lập trường “một Trung Quốc”, tức không công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập để duy trì quan hệ với Trung Quốc, mặt khác tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan để giữ Đài Loan trong vòng tay của mình và kiềm chế Trung Quốc. Do đó, mỗi khi Mỹ và Đài Loan ký hợp đồng mua bán vũ khí, an ninh tại eo biển này lại dậy sóng, quan hệ Trung-Mỹ lại căng thẳng. Trung Quốc cho rằng, việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan là hành động “can thiệp nội bộ của Trung Quốc”, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ “hai bờ”, đồng thời tuyên bố sẽ áp dụng “biện pháp cần thiết” đáp trả Mỹ. Sự bất ổn ở eo biển Đài Loan còn phụ thuộc vào thái độ của nhà cầm quyền Đài Loan đối với đại lục. Dân tiến đảng và Quốc dân đảng là hai đảng thay nhau cầm quyền ở Đài Loan lại có quan điểm khác nhau khá xa về quan hệ hai bờ. Hiện nay bà Thái Anh Văn của Dân tiến đảng đang lãnh đạo hòn đảo này có thái độ cứng rắn hơn với đại lục so với ông Mã Anh cửu của Quốc dân đảng trước đây.
Khu vực Đông Bắc Á tồn tại các tranh chấp chủ quyền biển đảo như tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku[5] giữa Trung Quốc và Nhật Bản, tranh chấp đảo Dokdo/Takeshima[6] giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, tranh chấp bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo[7] giữa Trung Quốc và Hàn Quốc... diễn ra trong nhiều thập kỷ đã trở thành điểm nóng tiềm tàng trong khu vực. Những năm gần đây, các tranh chấp này có dấu hiệu gia tăng trước sự trỗi dậy về kinh tế, quân sự cùng với chiến lược biển đầy tham vọng của Trung Quốc và sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ. Tình hình này đã đặt khu vực Đông Bắc Á trong trạng thái bên bờ của các cuộc xung đột quân sự.Tranh chấp chủ quyền biển đảo diễn ra ngày càng quyết liệt.
Tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Nhật Bản và Trung Quốc bùng phát vào năm 2012 sau sự kiện Chính phủ Nhật Bản tuyên bố mua 3 trong số 5 hòn đảo thuộc nhóm đảo trên từ sở hữu tư nhân. Phía Trung Quốc phản ứng gay gắt cả trên phương diện chính trị và ngoại giao, coi đây là cuộc “khủng hoảng Điếu Ngư”. Kể từ đó đến nay, một loạt các diễn biến căng thẳng trong tranh chấp giữa hai nước liên tục diễn ra. Phía Trung Quốc bên cạnh việc đưa ra những lời đe dọa, cảnh báo Nhật Bản, nước này thường xuyên đưa tàu thuyền dân sự, quân sự ra uy hiếp ở khu vực tranh chấp. Đáp lại, Nhật Bản cũng tuyên bố sẵn sàng sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ Senkaku nếu quần đảo này bị Trung Quốc xâm phạm.
Tranh chấp đảo Dokdo/Takeshima trở nên căng thẳng nhất sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak tới hòn đảo này tháng 8/2012. Ông Lee là tổng thống Hàn Quốc đầu tiên đặt chân đến đảo Dokdo/Takeshima từ khi tranh chấp giữa hai nước xung quanh nhóm đảo bắt đầu cách đây vài thập kỷ. Sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc, quan hệ Hàn Quốc và Nhật Bản xấu đi rõ rệt. Nhật Bản dự kiến đưa Seoul ra tòa án quốc tế với mong muốn nhằm giải quyết tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, tuy nhiên, giới chức Hàn Quốc khẳng định nước này sẽ không chấp thuận đề nghị trên.
Tranh chấp bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo giữa Trung Quốc và Hàn Quốc cũng nổi lên sau khi Trung Quốc đơn phương thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông (11-2013) bao trùm cả bãi đá này. Ngay lập tức, Hàn Quốc phản ứng quyết liệt. Đồng thời, Hàn Quốc cũng tuyên bố mở rộng ADIZ của nước này, bao gồm cả bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo. Gần đây, căng thẳng giữa Seoul và Bắc Kinh có chiều hướng gia tăng sau khi Hàn Quốc chấp thuận cho Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD trên lãnh thổ nước này. Tháng 8-2016, các máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã bay vào ADIZ chồng lấn giữa hai nước mà không thông báo trước khiến quân đội Hàn Quốc điều máy bay chiến đấu “hộ tống” các máy bay của Trung Quốc ra khỏi khu vực. Hiện Trung Quốc thường xuyên điều máy bay giám sát xung quanh bãi đá ngầm tranh chấp, còn Hàn Quốc cũng đã triển khai tàu lớn có khả năng hỗ trợ trực thăng gần khu vực này, với tần suất bay giám sát trên không 3-4 lần/tuần.
Có thể thấy, những năm gần đây, các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực Đông Bắc Á không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự. Bên cạnh sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Mỹ càng tăng cường can dự đối với khu vực thông qua thúc đẩy hợp tác và đảm bảo ô an ninh cho các đồng minh, một mặt vì lợi ích chiến lược của Mỹ, mặt khác, với các đồng minh có thể coi đây là sự hậu thuẫn để đối phó với Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo. Vì thế, an ninh Đông Bắc Á vốn luôn trong tình trạng bất ổn càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.
Xu hướng an ninh Đông Bắc Á thời gian tới
Thời gian gần đây, thế giới diễn biến càng khó lường. Đặc biệt việc D.Trump đắc cử Tổng thống Mỹ đã làm đảo lộn tất cả những nguyên tắc vốn định hình nền chính trị Mỹ và quan hệ giữa Mỹ và thế giới. Đến nay tất cả vẫn chưa định hình, mọi dự báo lúc này không khác gì giải một bài toán còn thiếu quá nhiều dữ kiện. Đã có những lúc nhiều chuyên gia cho rằng, hai cường quốc thế giới Mỹ và Trung Quốc có nguy cơ rơi vào một cuộc đối đầu nguy hiểm, theo đó tình hình an ninh Đông Bắc Á tiềm ẩn nguy cơ bùng phát xung đột quân sự. Nhưng ngay sau đó lại có những thay đổi đầy kịch tính.
Về vấn đề Đài Loan, khi mới đắc cử, Tổng thống D.Trump cho rằng, cần phải xem xét lại lập trường “một Trung Quốc”, ông điện đàm với lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn, khiến Trung Quốc nổi giận. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã trao công hàm phản đối vì cho rằng Mỹ đã không tôn trọng nguyên tắc “một Trung Quốc” mà hai bên đã thỏa thuận mấy chục năm nay, đồng thời đưa máy bay ném bom, tàu sân bay Liêu Ninh hoạt động quanh Đài Loan. Không lâu sau, Tổng thống D.Trump lại gửi thư chúc Tết và điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình và nhấn mạnh tôn trọng chính sách “một Trung Quốc”, làm dịu bớt những căng thẳng trong quan hệ hai nước về vấn đề Đài Loan. Tuy nhiên, mới đây báo chí lại đưa tin, chính quyền của Tổng thống Mỹ D.Trump đang chuẩn bị chuyển giao lô vũ khí hiện đại, trị giá 1 tỷ USD cho Đài Loan, có thể làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ hai bờ.
Việc CHDCND Triều Tiên liên tiếp phóng thử tên lửa cũng đẩy an ninh khu vực vào “vòng tuần hoàn xấu”. Đầu tiên, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ký Hiệp định chia sẻ tin tức tình báo quân sự (11-2016). Sau khi ký kết hiệp định này, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể chia sẻ tin tức tình báo quân sự mà không phải thông qua Mỹ. Tiếp đó, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản tăng cường sự hiện diện quân sự, mở rộng quy mô diễn tập quân sự. Mỹ cũng đổ trách nhiệm cho Trung Quốc đã không tích cực trong việc kiềm chế Bình Nhưỡng phát triển chương trình hạt nhân. Đáng chú ý, sau khi CHDCND Triều Tiên phóng thử 4 tên lửa ngày 6-3-2017, Mỹ lập tức triển khai 2 bệ phóng của hệ thống THAAD đến căn cứ không quân Osan, Hàn Quốc. Mặc dù trong kế hoạch, THAAD không được đưa đến Nhật Bản nhưng nhiều phân tích cho rằng, việc CHDCND Triều Tiên liên tục phóng tên lửa có thể khiến Tokyo cân nhắc một cách nghiêm túc hơn việc sử dụng hệ thống này. Trước khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ đầu tiên kể từ sau khi D.Trump nhậm chức Tổng thống, mà ở đó dự kiến vấn đề Triều Tiên sẽ là một chủ đề chính, Triều Tiên lại tiếp tục thử tiên lửa như là một hành động thách thức hai cường quốc có ảnh hưởng nhất đối với khu vực này. Tình hình căng thẳng ở Đông Bắc Á lại bị đẩy lên một nấc thang mới. Cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ gần như không đạt được tiến bộ nào về vấn đề chương trình hạt nhân của Triều Tiên ngoài việc hai bên đều cho rằng nó đã đạt tới “giai đoạn nghiêm trọng”. Thêm vào đó, vào đúng thời điểm diễn ra cuộc gặp nhạy cảm này, Tổng thống D.Trump ra lệnh phóng gần 60 quả tên lửa hành trình Tomahawk vào sân bay quân sự Syria, như là một thông điệp răn đe rằng, nếu Trung Quốc không hợp tác, Mỹ sẵn sàng hành động đơn phương và không loại trừ giải pháp quân sự đối với Triều Tiên. Tuy nhiên nếu tình huống này xẩy ra, CHDCND Triều Tiên không cam chịu cúi đầu, có thể Seoul và Nhật Bản sẽ là mục tiêu tấn công đầu tiên của Triều Tiên. Hơn nữa Trung Quốc không thể khoanh tay đứng nhìn, tai họa sẽ lan ra toàn bộ khu vực Đông Bắc Á, hậu quả khó lường. Khả năng này khó đoán định bởi quyền quyết định nằm trong tay Tổng thống D.Trump, một nhân vật có tính khí thất thường, khó đoán định.
Trên thực tế, Trung Quốc đã có những nhượng bộ nhất định như việc cấm nhập khẩu than đá của CHDCND Triều Tiên cho tới hết năm 2017. Hành động này của Trung Quốc mang ý nghĩa gửi đi thông điệp cảnh báo mạnh mẽ tới CHDCND Triều Tiên, bởi than đá là mặt hàng xuất khẩu chính và chiếm tới 90% hoạt động thương mại của Bình Nhưỡng. Đây còn là thông điệp gửi tới Tổng thống D.Trump bởi nhà lãnh đạo Mỹ nhiều lần chỉ trích Trung Quốc chưa tích cực kiềm chế tham vọng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Nhưng nếu Mỹ đòi hỏi nhiều hơn ở Trung Quốc là điều không thực tế, bởi một mặt Trung Quốc không thể làm cho chế độ CHDCND Triều Tiên lâm vào khủng hoảng, mặt khác trên thực tế khả năng kiềm chế của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng là rất có hạn.
Liên quan đến bán đảo Triều Tiên, tình hình căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đang tiếp tục leo thang do việc Mỹ và Hàn Quốc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Vấn đề này cũng là một ẩn số khó dự báo bởi tình hình nội bộ Hàn Quốc đang thời điểm phức tạp, không loại trừ khả năng Tổng thống đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 5 tới có lập trường khác biệt về vấn đề này. Trong trường hợp đó, tình hình có thể thay đổi hoàn toàn.
Tình hình biển Hoa Đông cũng tiếp tục được coi là điểm nóng trong khu vực. Trong chuyến thăm Nhật Bản tháng 2-2017, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis khẳng định, Chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ giữ nguyên cam kết bảo vệ Nhật Bản với tư cách một đối tác theo Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, trong đó bao gồm cả quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Điều 5 của Hiệp ước nêu rõ, lực lượng của Mỹ và Nhật Bản sẽ phối hợp đáp trả bất cứ cuộc tấn công nào nhằm vào lãnh thổ do Nhật Bản kiểm soát. Giáo sư Viện quan hệ quốc tế thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc Zhou Yongsheng nhận định: “Tuyên bố đảo Điếu Ngư cũng thuộc diện theo Điều 5 (Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật) là dấu hiệu cho thấy chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ tiếp tục chiến lược xoay trục sang châu Á có từ thời chính quyền tiền nhiệm, và đó là tin xấu cho Bắc Kinh. Điều này có nghĩa là chính quyền Tổng thống D.Trump sẽ không chỉ thừa hưởng chiến lược xoay trục sang châu Á mà thậm chí còn đưa nó lên một tầm mới”[8].
Hiện quan hệ Mỹ - Trung xung quanh vấn đề Đông Bắc Á đang tồn tại nhiều mâu thuẫn và hết sức căng thẳng. Tuy nhiên có thể thấy rõ, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai cường quốc này vẫn chiếm ưu thế. Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc, chiếm gần 20% xuất khẩu của Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc chiếm 9% hàng hóa xuất khẩu của Mỹ. Trên lĩnh vực tài chính, hai nước liên quan mật thiết với nhau. Dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có khoảng hơn 3.000 tỷ USD và nước này vẫn tiếp tục đầu tư vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Nếu mối quan hệ giữa hai siêu cường này đổ vỡ, Mỹ sẽ khó tìm nguồn tài trợ cho khoản nợ trên thị trường tài chính nước ngoài. Trung Quốc là chủ nợ số một của Mỹ, giữ gần 7% nợ công của Mỹ, khoảng 1.250 tỷ USD. Ngay cả tập đoàn kinh tế của Tổng thống D.Trump và của con gái ông cũng có quan hệ làm ăn mật thiết với Trung Quốc. Vì thế, người ta cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tìm cách kiềm chế, không để quan hệ hai nước rơi vào tình trạng khủng hoảng và nhiều khả năng an ninh Đông Bắc Á vẫn tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát.
Tóm lại, có thể thấy rằng, tình hình Đông Bắc Á thời gian tới tiếp tục có nhiều biến động, thỏa hiệp - cạnh tranh đan xen nhau và chịu sự chi phối sâu sắc của quan hệ Mỹ - Trung. Mặc dù chính sách đối ngoại mới của Mỹ chưa hình thành rõ nét, song xu hướng đẩy mạnh can dự vào châu Á - Thái Bình Dương nói chung, Đông Bắc Á nói riêng vẫn là xu hướng chính. Đa số các nhà phân tích cho rằng, cụm từ “tái cân bằng” không còn được các quan chức dưới chính quyền D.Trump sử dụng, song điều đó cũng sẽ không thay đổi những lợi ích quốc gia cơ bản của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương như việc duy trì các đồng minh, thương mại và đầu tư, tự do hàng hải và hàng không. Do đó, tình trạng gia tăng sức mạnh quân sự, tranh chấp chủ quyền biển đảo và cạnh tranh tại các điểm nóng ở Đông Bắc Á sẽ tiếp tục diễn ra gay gắt, nhưng ít có khả năng bùng phát thành xung đột vũ trang giữa các bên./.
[1] An ninh Đông Bắc Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ, TS Hoàng Minh Hằng, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, NXB khoa học xã hội 2015
[2] THAAD là hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung trong giai đoạn cuối của chuyến bay. Hệ thống radar mà THAAD sử dụng thuộc loại radar quét mạng pha điện tử chủ động (AESA) có khả năng nhận dạng mục tiêu rất cao. Radar có tầm trinh sát khoảng 1.000 km, có thể mở rộng lên đến 4.000 km.
[3] Nhật Bản tăng chi tiêu quốc phòng kỷ lục trong năm 2017, Báo Quân đội Nhân dân, ngày 2-12-2016.
[4] Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11-3-2017.
[5] Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku là nhóm đảo nhỏ nằm cách đảo chính của tỉnh Okinawa của Nhật Bản khoảng 40km về phía tây và hiện do Nhật Bản kiểm soát, nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và thường xuyên đưa tàu hoặc máy bay đến vùng biển xung quanh quần đảo này.
[6] Đảo Dokdo/Takeshima nằm ở vùng biển phía đông bán đảo Triều Tiên, có diện tích khoảng 0,18 km vuông. Hàn Quốc và Nhật Bản đều tuyên bố chủ quyền. Hiện Hàn Quốc kiểm soát thực tế hòn đảo này.
[7] Bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo nằm cách đảo Jeru của Hàn Quốc khoảng 150km về phía Tây Nam do Hàn Quốc quản lý, Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền với đảo đá này.
[8] Mỹ sẽ đứng về phía Nhật trong tranh chấp ở Hoa Đông, www.dantri.com.vn, ngày 4-2-2017.
Xem thêm
|
|
Trong hai ngày (14 - 15/5), Diễn đàn hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy liên kế kinh tế, kết nối khu vực giữa các châu lục, Á, Âu và Phi do Trung Quốc tổ chức sẽ diễn ra tại Bắc Kinh. Diễn đàn mang tên Hợp tác quốc tế Vành đai và Con đường, thu hút sự tham dự của 28 nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ. Đoàn Việt Nam do Chủ tịch nước Trần Đại Quang dẫn đầu tham dự.
Xem thêm
|
Vào tháng 5 năm nay, Arun Sundararajan, giáo sư của trường Stern thuộc Đại học New York, chuyên gia kinh tế về sự tác động của công nghệ số làm thay đổi việc kinh doanh, cơ cấu chính phủ và xã hội dân sự, đã cho ra mắt cuốn sách “Nền kinh tế chia sẻ” (The Sharing Economy).
Cuốn sách 240 trang với 2 chương, 9 phần. Tác giả cho rằng thế giới đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc Cách mạng Công nghệ lần thứ tư. Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất sử dụng hơi nước để cơ giới hóa sản xuất. Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ hai sử dụng điện năng để sản xuất hàng loạt. Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, được xây dựng trên nền tảng của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba, là một cuộc cách mạng công nghệ số, đã bắt đầu diễn ra từ giữa thế kỷ 20. Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư sẽ làm thay đổi căn bản cách sống và cách làm việc của con người. Nền kinh tế chia sẻ là một sản phẩm của cuộc Cách mạng Công nghệ lần thứ tư ấy.
Tác giả làm rõ: (1) Có sự thay đổi này là do sự phát triển của phần mềm tự do, máy tính và các mạng kỹ thuật số trên quy mô đại chúng; (2) Chúng ta đang trải nghiệm một mô hình mới kết hợp các mô hình kinh tế cũ đã bị gạt bỏ dưới chủ nghĩa tư bản; (3) Sự phát triển của công nghệ số tạo điều kiện cho mô hình kinh tế mới này phát triển.
Theo các nhà khoa học được dẫn chứng, dường như chúng ta sắp bước vào giai đoạn 2 của sự tái thiết kế này, và lần này chúng ta sẽ chứng kiến việc thiết kế lại cuộc sống hàng ngày. Do các diễn đàn như Airbnb, Lyft, Getaround, Etsy phá vỡ các hệ thống kinh tế cũ dựa trên các tương tác giữa công ty với người tiêu dùng và sở hữu tư nhân, nên chúng ta đang chứng kiến vô số vấn đề về luật lệ.
Đồng thời, sự thay đổi kinh tế mà chúng ta đang chứng kiến đặt ra một số vấn đề về chính sách; đòi hỏi chúng ta phải “điều chỉnh hy vọng, giả thiết và chính sách để thích nghi với tầm quan trọng đang tăng lên của quan hệ xã hội nói chung và sự chia sẻ nói riêng như là một phương thức sản xuất kinh tế mới”.
Chúng ta đang chứng kiến sự trỗi dậy của một “nền kinh tế lai tạo”, trong đó sự khác biệt giữa kinh tế thương mại và kinh tế chia sẻ ngày càng trở nên mờ nhạt.
Theo tác giả, dường như chúng ta đang bước vào một thời đại tự động hóa mới, trong đó tốc độ tăng trưởng của công việc do máy móc thực hiện có thể vượt tốc độ tăng trưởng của công việc do máy móc tạo ra. Một nghiên cứu của Mackinsey năm 2015 cho thấy: “Có đến 45% hoạt động mà các cá nhân được trả công để thực hiện công việc tự động hóa bằng cách ứng dụng các công nghệ hiện đang có”.
Có thể nền kinh tế chia sẻ sẽ chuyển một số công việc hiện nay sang các hình thức làm việc khác, linh hoạt và tự do hơn. Kể từ thập kỷ 1990, sự chuyển việc ra nước ngoài phát triển đáng kể. Gần đây người ta tập trung chú ý vào sự tự động hóa dựa trên công nghệ số.
Trong cuốn sách “Thời đại máy móc thứ hai” (The Second Machine Age), Erik Brynjolfsson và Andrew McAfee cho rằng: Chúng ta đã đi đến một thời điểm then chốt, thời điểm công nghệ số có “sức mạnh hoàn thiện” (“full force” of digital technologies) và máy tính sắp vượt qua con người trong một số công việc. Theo hai tác giả: “Tiến bộ công nghệ sẽ bỏ lại đằng sau một số, thậm chí là nhiều người… Chưa bao giờ có một thời kỳ tốt đẹp hơn để làm một người lao động kỹ năng đặc biệt hoặc được đào tạo thích hợp, bởi vì người lao động này có thể sử dụng công nghệ để tạo ra và tóm bắt giá trị. Nhưng cũng chưa bao giờ có một thời kỳ tồi tệ hơn để làm một người lao động chỉ có kỹ năng và năng lực bình thường, bởi vì máy tính, người máy và các công nghệ số khác đang giành được các kỹ năng và khả năng này với một tốc độ phi thường”. Tự động hóa sẽ phát triển với tốc độ chưa từng có và người tiêu dùng sẽ có nhiều sự lựa chọn, nhưng nhiều người lao động sẽ có nguy cơ bị lỗi thời.
Trong nửa thứ hai của thế kỷ 20, phần lớn người Mỹ chuyên làm một việc thường xuyên, nếu mất việc là thất nghiệp cho đến khi tìm được một công việc thường xuyên mới. Trong nền kinh tế ngày nay, việc xác định thất nghiệp hay không thất nghiệp đang trở nên ngày càng khó. Bởi vì doanh nghiệp nhỏ, hợp đồng thuê mướn đa phương, lao động tự do và làm tư đang làm đảo lộn các định nghĩa và định lượng truyền thống.
Nền kinh tế đang có biến chuyển lớn, có thể có ý nghĩa như cuộc Cách mạng Công nghiệp. Vấn đề là biến chuyển này có tạo ra một thế giới việc làm tốt đẹp hơn và chúng ta phải làm gì để thúc đẩy nó theo hướng đó.
Sự quá độ đang diễn ra này là một phần của cái mà giáo sư Klaus Schwab gọi là “cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Tính phức tạp của nó có thể giải thích cho cuộc đấu tranh trong xã hội để đi đến “chủ nghĩa tư bản quần chúng”. Nền kinh tế chia sẻ được hình thành bởi chính các mâu thuẫn nội tại của nó. Nền kinh tế chia sẻ vừa là tư bản chủ nghĩa vừa là xã hội chủ nghĩa, vừa là kinh tế thương mại vừa là kinh tế quà tặng, vừa là thị trường vừa là hệ thống phân cấp, vừa phá hủy vừa tạo ra việc làm, vừa là các xã hội biệt lập vừa là các xã hội liên kết.
Qua cuốn sách này, thiết nghĩ, những nội dung của nền kinh tế mới đang tạo ra những mâu thuẫn gay gắt trong lòng nước Mỹ mà cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vừa qua đã phản ánh khá rõ nét. Ông Trump chỉ hành động như một nhà dân túy. Những điều ông tuyên bố về việc các nước đang “cướp đi việc làm của người Mỹ” và ông ta sẽ tạo ra hàng triệu việc làm mới từ ngành chế tạo phần lớn là mị dân. Nhiều thị trưởng đang chống lại chính sách chống người nhập cư của tổng thống đắc cử. Tổng thống Obama có thể đã sớm nhìn ra vấn đề về sự chuyển đổi của mô hình kinh tế Mỹ, rằng dưới tác động của cách mạng kỹ thuật số giai đoạn mới và tự động hóa xuất hiện đòi hỏi loại hình kinh doanh mới, quản lý mới, lãnh đạo mới. Thậm chí là liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế kiểu mới. Cuộc số hóa vật chất sẽ làm thay đổi căn bản ngành công nghiệp ô tô, chuyển quyền lực thị trường khỏi các nhà sản xuất chế tạo hàng hàng đầu, sang cho các diễn đàn công nghệ như Uber, Didi Kuadi, Ola, Apple, Google.
Donald Trump có thể cuối cùng cũng không thể làm khác được trước các xu thế mới.
Nền kinh tế mới mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại đang đòi hỏi giới hoạch định chính sách các nước hiểu và từ đó xây dựng tầm nhìn dài hạn về kinh tế, xã hội và luật pháp… Cũng như hội nhập và liên kết kinh tế và lao động quốc tế. Một ví dụ khác, quá trình đô thị hóa sẽ tăng tốc trong những thập kỷ tới; nếu thiếu một tầm nhìn dài hạn thì quy hoạch đô thị sẽ sớm trở nên lạc hậu và luôn bị động, giật gấu vá vai. Đó là một số ý nghĩa thực tiễn của cuốn sách này.
Trung tâm CSSD xin giới thiệu một số nội dung chính của cuốn sách.
Xem thêm
|
|
Ngày 20 tháng 5 năm 2016, Đài truyền hình Phượng Hoàng của Hồng Kông đã đến Trung tâm CSSD để phỏng vấn Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Trường, Chủ tịch Trung tâm CSSD.
Xem thêm
|
|
Lịch sử Việt Nam qua 70 năm hình thành và phát triển, từ một nước thuộc địa nhỏ bé ở Đông Nam Á chưa ai biết tới, nay đã có quan hệ với toàn bộ các nước trong Liên Hiệp Quốc, và đặc biệt có quan hệ đối tác chiến lược, hoặc đối tác toàn diện, với 5 nước lớn trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Đó là kết quả của nền ngoại giao Hồ Chí Minh, mà trong giai đoạn đầu (1945-1946) Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo.
Nhân kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng 8, Quốc khánh 2/9 và cũng là bảy thập kỷ Ngoại giao Việt Nam, Tuần Việt Nam (Báo Vietnamnet.vn, trong hai số 26 và 27/8, phỏng vấn Đại sứ Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Trường, Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế, xung quanh những vấn đề ngoại giao của Việt Nam.
Xem thêm
|