Tiếp và làm việc với GS. Srikanth Kondapalli![]() Ngày 06/12/2017, Chủ tịch Trung tâm CSSD Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Trường cùng các Cố vấn cao cấp đã tiếp và làm việc với GS. Srikanth Kondapalli, Chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc thuộc Đại học Jawaharlal Nehru. |
Tọa đàm “Chính sách của Mỹ đối với châu Á và quan hệ Mỹ - Trung”![]() Ngày 16/11/2017, Trung tâm CSSD tổ chức tọa đàm “Chính sách của Mỹ đối với châu Á và quan hệ Mỹ - Trung”. |
Chuyên gia: Đại hội 19 sẽ tác động tích cực tới quan hệ Trung-Việt![]() (TTXVN) Nhân dịp Đại hội lần thứ 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra từ ngày 18-24/10, phóng viên TTXVN có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Vinh Quang, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Phát triển quốc tế về quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam-Trung Quốc, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc những thành tựu đã đạt được và triển vọng quan hệ hai nước trong thời gian tới.
|
40 năm quan hệ Việt Nam-Liên Hợp Quốc: Một lời hẹn ước![]() (Chinhphu.vn) - Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập Liên Hợp Quốc (LHQ), đến nay vừa tròn 40 năm. Chặng đường này đã ghi nhận sự hợp tác sâu rộng và hiệu quả giữa Việt Nam và tổ chức quốc tế lớn nhất và quan trọng nhất của thế giới hiện đại.
Duyên phận
Năm 1945-1946, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư tới các nhà lãnh đạo những nước sáng lập LHQ bày tỏ ý nguyện Việt Nam sẵn sàng hợp tác với LHQ, đề cao Hiến chương LHQ và yêu cầu tổ chức này “thực hiện lời hứa long trọng của mình là tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập”...
Cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân Việt Nam, với thắng lợi vĩ đại Điện Biên Phủ năm 1954, đã góp phần thức tỉnh các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân nô dịch, kích hoạt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới giữa thế kỷ 20. Việc LHQ thông qua Nghị quyết 1514 ngày 14/12/1960 trao trả độc lập cho các nước thuộc địa có sự đóng góp bằng xương máu của nhân dân Việt Nam.
Nằm trong ý tưởng của những nước lớn thành viên sáng lập, LHQ là một tổ chức quốc tế đa phương, một kiến trúc an ninh tập thể nhằm duy trì trật tự thế giới hình thành từ thành quả tiến bộ sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hiến chương LHQ đề ra các nguyên tắc cơ bản, các giá trị cốt lõi về tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết hoà bình tranh chấp, không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực, thúc đẩy tiến bộ xã hội...
LHQ đã chứng tỏ là một diễn đàn quan trọng để các nước vừa và nhỏ bảo vệ các quyền cơ bản được ghi trong Hiến chương. Các cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc đã góp phần có ý nghĩa củng cố những giá trị ấy.
Hai giai đoạn hợp tác chủ yếu
Trong 40 năm qua, LHQ luôn đồng hành cùng Việt Nam trên các chặng đường xây dựng và phát triển. Quan hệ Việt Nam-LHQ trải qua hai thời kỳ chủ yếu: Từ năm 1977 đến cuối những năm 1980 và từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới đến ngày nay.
Trong giai đoạn đầu, Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh, lại vướng vào các cuộc xung đột với các nước láng giềng và chịu sự bao vây cấm vận, LHQ là một trong các cửa ngõ quan trọng để Việt Nam tiếp cận với thế giới.
Đây là một giai đoạn hết sức khó khăn. Đại hội đồng LHQ khóa 32 (1977) đã thông qua Nghị quyết kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh.
Sự hỗ trợ quý báu của các tổ chức LHQ, đặc biệt là Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Cao ủy LHQ về người tị nạn (UNHCR), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)… đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội, hội nhập vào các cơ chế đa phương của thế giới. Điều quan trọng, Việt Nam đã vận dụng các diễn đàn quốc tế để đấu tranh và vượt qua sự chống phá của các thế lực thù địch.
Trong giai đoạn Đổi mới của Việt Nam, sự hợp tác giữa Việt Nam và LHQ không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực, thông qua các hoạt động tư vấn chính sách, trợ giúp kỹ thuật, các chương trình, dự án hỗn hợp song phương, đa phương, và huy động được nguồn vốn quan trọng từ các nước tài trợ và các tổ chức tài chính quốc tế.
Bằng nội lực và sự hợp tác quốc tế hiệu quả, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực và có trách nhiệm, tham gia ngày càng chủ động và có hiệu quả vào nhiều lĩnh vực hoạt động của LHQ.
Nước ta đã tích cực tham gia Sáng kiến “Thống nhất hành động”; triển khai thành công Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ. Các nhà ngoại giao và cán bộ chuyên môn các ban ngành của Việt Nam ngày càng trưởng thành, tham gia lão luyện vào các “sân chơi” của các cơ chế của LHQ, như Hội đồng Bảo an LHQ, Hội đồng Kinh tế-xã hội, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Chấp hành UNESCO, Ủy ban Luật pháp quốc tế.
Với việc Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, hợp tác giữa Việt Nam và LHQ chuyển trọng tâm từ hỗ trợ kỹ thuật sang tư vấn chính sách thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, tập trung vào các lĩnh vực như xoá đói giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng thể chế, bình đẳng giới...
Đồng thời, phù hợp với các giá trị cốt lõi của đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nước ta đã đi đầu trong việc thúc đẩy thực thi các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ vì sự tiến bộ của nhân loại; đấu tranh bảo vệ các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982…
Để đưa quan hệ Việt Nam-LHQ lên một tầng nấc mới, chúng ta cần tăng cường thực lực quốc gia. Như Chủ tịch Hồ Chí minh từng nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to, tiếng mới lớn”.
Thực hiện cuộc đổi mới 2:0, vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” theo các tiêu chí của LHQ, Việt Nam sẽ có điều kiện đóng góp tích cực và hiệu quả hơn nữa cho hoạt động của LHQ, thông qua đó tối ưu hóa lợi ích quốc gia, đồng thời nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp vào sự tiến bộ của tổ chức quốc tế đa phương quan trọng nhất hiện nay.
TS. Nguyễn Ngọc Trường |
Vì một cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết![]() (Chinhphu.vn) - Cộng đồng ASEAN cần phải tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, nhằm xây dựng thành công một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết và có tiếng nói quan trọng trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Cách đây 50 năm, Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thành lập tại Bangkok. Sự kiện này diễn ra vào lúc Chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn quyết liệt. 5 thành viên sáng lập cảm thấy bất an trước sự đối đầu của các nước lớn, mong muốn tạo ra một liên kết chính trị và an ninh nhằm đối phó với những bất trắc tại khu vực thời kỳ “hậu Chiến tranh Việt Nam”. Nhưng trong không khí Chiến tranh lạnh bao trùm chính trị thế giới, sự kiện này đã không gây được nhiều sự chú ý.
Nửa thế kỷ trôi qua, ASEAN đã làm nên lịch sử, với ba thành tựu nổi bật nhất:
Đến năm 1999, ASEAN đã thành một tổ chức khu vực gồm 10 quốc gia thành viên, hoạt động dưới mái nhà chung, với 625 triệu dân, thương mại nội khối hơn một nghìn tỷ USD, góp phần quan trọng xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và phát triển.
Từ một khu vực có nhiều điểm khác biệt, các quốc gia xung đột và nghi ngờ lẫn nhau, ASEAN ngày nay là đối tác của phát triển, của hội nhập khu vực và thế giới, dưới một ngọn cờ chung, dựa trên những nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết các bất đồng, xung đột một cách hòa bình, thông qua cơ chế chính thức và không chính thức. Từ một cơ cấu hợp tác tiểu khu vực đã trở thành tổ chức hợp tác khu vực toàn diện, tạo được bản sắc và phương cách riêng, cùng với Cộng đồng châu Âu (EU), là tổ chức khu vực bền vững nhất trong thế giới đương đại.
ASEAN đã đóng góp có ý nghĩa quan trọng vào duy trì môi trường hòa bình và an ninh tại Đông Á, tạo ra các cơ chế thích hợp về chính trị và an ninh, “đóng vai trò dẫn dắt các cơ chế khu vực”, để tất cả các nước liên quan, bao gồm các nước lớn ở châu Á-Thái Bình Dương, đối thoại và hợp tác vì hòa bình và an ninh, trong tình hình châu Á-Thái Bình Dương không ngừng biến đổi và biến động, tạo điều kiện tìm kiếm và xây dựng một cơ cấu an ninh và trật tự khu vực phù hợp với tương quan lực lượng mới.
Hiện tại, ASEAN đứng trước ba thách thức lớn:
Thứ nhất, ASEAN đang bước sang kỷ nguyên mới, với các thách thức trong việc xây dựng Cộng đồng và liên kết nội khối sao cho hiệu quả, thiết thực, có “văn hóa thực thi”, thúc đẩy an sinh xã hội, tăng cường phục vụ lợi ích của người dân các nước thành viên. Điều đáng tiếc, trải qua gần hai thập kỷ phấn đấu, ASEAN vẫn chưa lấp được khoảng cách giữa các thành viên “khá giả” và các thành viên “trình độ phát triển thấp”.
Thứ hai, duy trì liên kết và đoàn kết thực sự, giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ với các nước lớn, vì lợi ích quốc gia mình cũng như lợi ích của cộng đồng ASEAN, không vì cái này mà hy sinh cái kia.
Thứ ba, Đông Nam Á từ thế kỷ 20 đến nay luôn là tiêu điểm của cạnh tranh và giành giật ảnh hưởng giữa các nước lớn – đó vừa là đặc điểm vừa là “định mệnh” của khu vực này do vị trí địa chiến lược đặc biệt của nó.
ASEAN đang đứng trước sự cạnh tranh chiến lược hết sức gay gắt giữa các nước lớn liên quan. Các nước lớn đang tìm cách lợi dụng, tạo ra sự phân cực về mặt chính trị trong tổ chức và phân hóa hàng ngũ ASEAN. Vì vậy, các thành viên cần làm sao để ASEAN giữ vững đoàn kết nhất trí, tích cực, chủ động, có như thế mới phát huy được vai trò trung tâm trong các cơ chế khu vực và giữ cho khu vực này hòa bình, trung lập, ổn định và phát triển.
Cộng đồng ASEAN cần phải tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, nhằm xây dựng thành công một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết và có tiếng nói quan trọng trong các vấn đề khu vực và quốc tế.
Quan trọng hơn cả vẫn là đoàn kết, nhất trí trong nội bộ khối và giữ vững độc lập, tự chủ của tổ chức. Đồng thời, phải làm cho các thành viên và toàn khối mạnh – mạnh về thực lực, mạnh về tổ chức, ta có mạnh thì các nước lớn mới tôn trọng ta, “đếm xỉa” tới ta, và ta mới tham gia được vào cuộc chơi chiến lược giữa các nước lớn, chứ không phải làm con “tốt đen” trên bàn cờ chiến lược ấy.
Giải quyết vấn đề Biển Đông quan trọng đối với hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông, cũng như đối với hòa bình, ổn định của Đông Nam Á. Ngày 6/8, Ngoại trưởng Trung Quốc và Ngoại trưởng của các nước ASEAN đã thông qua dự thảo khung Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Đây là một bước tiến tích cực hướng tới giải quyết hòa bình các tranh chấp trên Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế. Từ kết quả này, các bên cần sớm khởi động đàm phán thực chất COC có hiệu lực và ràng buộc về pháp lý.
Việt Nam gia nhập ASEAN là một sự kiện quan trọng đối với tổ chức khu vực này.
ASEAN có tầm quan trọng chiến lược đối với Việt Nam, là một trong các trụ cột của chính sách đối ngoại của Việt Nam. Các mối quan hệ cộng hưởng tạo ra môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, phục vụ cho an ninh và phát triển của nước ta những thập kỷ vừa qua.
Việt Nam là một thành viên chủ động và tích cực, đóng vai trò nòng cốt trong thúc đẩy đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn. Đồng thời, vai trò này, cũng như những đóng góp chiến lược và cụ thể của Việt Nam cho tổ chức, đã nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển của Việt Nam, củng cố hòa bình, ổn định khu vực.
Các thành viên ASEAN cũng như cộng đồng quốc tế kỳ vọng nhiều về tương lai phát triển và vị thế của Cộng đồng ASEAN trên trường quốc tế.
Chúng ta vừa cần có một tầm nhìn toàn cục, vừa có cách tiếp cận thực tế, phù hợp với đặc điểm của tổ chức khu vực này và thực tiễn tình hình thế giới. Hướng về một Cộng đồng, nhưng cũng không quá kỳ vọng, hiểu rõ hiện thực khách quan liên quan đến Cộng đồng ASEAN và tình hình chính trị, kinh tế phức tạp tại khu vực chúng ta và trên thế giới trong những năm sắp tới. Phải thấy rằng tổ chức ASEAN là một thực thể của đời sống quốc tế, nó và các thành viên chịu tác động của các cường lực. Cộng đồng ASEAN cần điều chỉnh mục tiêu, biện pháp và bước đi cho phù hợp với thực tiễn. Trong trung hạn, cần lấy củng cố nội khối làm trọng tâm.
Việt Nam cần tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, chủ động và tích cực như thời gian qua. Người dân nước ta cần tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của ASEAN, phát huy hiệu quả vai trò trong ASEAN, vì lợi ích của khu vực và của chính Việt Nam./.
TS. Nguyễn Ngọc Trường
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế
(Độc giả có thể đọc bài viết tại: http://baochinhphu.vn/Cong-dong-ASEAN/Vi-mot-cong-dong-ASEAN-vung-manh-doan-ket/313336.vgp)
|
An ninh Đông Bắc Á trong quan hệ Mỹ-Trung![]() AN NINH ĐÔNG BẮC Á TRONG QUAN HỆ MỸ - TRUNGTình hình an ninh Đông Bắc Á bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là yếu tố cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự cạnh tranh này trong những năm gần đây đã đặt an ninh khu vực trước không ít các thách thức đáng lo ngại. Vậy xu hướng an ninh Đông Bắc Á thời gian tới ra sao, nhất là sau khi D.Trump lên nắm quyền Tổng thống Mỹ có sự điều chỉnh quan hệ với các nước trong khu vực, đang là vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm.Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Bắc Á Đối với Mỹ Mỹ không chỉ ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp với Trung Quốc về đảo Senkaku/Điếu Ngư đã làm cho liên minh Mỹ - Nhật trở nên gắn kết chặt chẽ hơn, mà còn ủng hộ Nhật Bản trong việc giải thích lại Hiến pháp để có một lực lượng quân sự đủ mạnh và thực hiện quyền phòng vệ tập thể với quân đội Mỹ. Trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến thăm Nhật Bản (4-2014), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel nhấn mạnh: “Mỹ hoan nghênh nỗ lực của Nhật Bản nhằm đóng một vai trò chủ động hơn trong liên minh, bao gồm xem xét diễn giải lại Hiến pháp liên quan đến quyền phòng vệ tập thể”[1]. Mỹ đã triển khai hệ thống ra-đa phòng thủ tên lửa X-band thứ hai tại tỉnh miền trung Kyoto của Nhật Bản vào cuối năm 2014. Việc Mỹ thảo luận với Nhật Bản bố trí lại lực lượng quân sự Mỹ đóng tại Okinawa, xem xét lại quan hệ đồng minh đã cho thấy nước này tiếp tục quan tâm đến vấn đề an ninh khu vực trong tình hình mới. Quan hệ liên minh Mỹ - Hàn được thúc đẩy với việc hai bên ký Hiệp định Tầm nhìn chung về liên minh năm 2009, nhấn mạnh mối quan hệ kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn giữa hai bên. Hiệp định này cũng đã tạo cơ sở cho Mỹ ký Hiệp ước thương mại tự do với Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 3-2012), mà giới phân tích cho là mang tính toàn diện nhất trên thế giới hiện nay. Mối đe dọa từ phía CHDCND Triều Tiên làm cho quan hệ Mỹ - Hàn càng thắt chặt hơn. Các cuộc diễn tập chung hàng năm giữa hai nước phô trương sức mạnh vừa răn đe CHDCND Triều Tiên nhưng cũng là răn đe Trung Quốc. Đặc biệt, Mỹ đã đạt được thỏa thuận về việc triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD)[2] tại Hàn Quốc. Mặc dù, cả Mỹ và Hàn Quốc đều khẳng định hệ thống phòng thủ tên lửa này là một biện pháp đối phó với mối đe dọa từ CHDCND Triều Tiên, song ai cũng thấy rõ, với sự bố trí này, Mỹ sẽ giành nhiều lợi thế trong tương quan lực lượng quân sự với Trung Quốc.
Trước hết, Nhật Bản đẩy nhanh quá trình trở thành một “quốc gia bình thường” để có đủ thế và lực trên tất cả các phương diện, nhất là về quốc phòng - an ninh. Nhật Bản đã nâng cấp Cục phòng vệ lên thành Bộ Quốc phòng (2007), thành lập Hội đồng An ninh quốc gia theo mô hình Mỹ (2014) và thông qua chiến lược an ninh quốc gia mới (2015). Cốt lõi của chiến lược này là dỡ bỏ lệnh cấm quyền phòng vệ tập thể, tạo điều kiện cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản triển khai các hoạt động quân sự ở nước ngoài. Nhật Bản cũng tiến hành tái bố trí lực lượng và tăng cường mua sắm các trang thiết bị quân sự cho Lực lượng Phòng vệ. Quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép triển khai vệ tinh quân sự, tăng cường vũ khí và các phương tiện hiện đại hàng đầu thế giới như tàu sân bay trực thăng lớp Izumo, tàu ngầm Soryu, tàu khu trục mang tên lửa điều khiển lớp Atago, máy bay MV-22 Osprey của Mỹ... Nhật Bản đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng để mua sắm trang thiết bị vũ khí (42 tỷ USD năm 2015, 41,8 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 46,4 tỷ USD)[3]. Ngoài ra, nước này cũng nới lỏng quy định cấm xuất khẩu vũ khí để mở đường cho các công ty trong nước tham gia các dự án xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài.
Trước những biến động trong khu vực, nhất là việc CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân và tên lửa đã khiến Hàn Quốc tăng cường hơn nữa sức mạnh quân sự và hợp tác với Mỹ về an ninh quốc phòng. Đặc biệt, sau vụ chìm tàu Cheonan tháng 3-2010 và đấu pháo sau đó giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên, phía Hàn Quốc đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng. Mới đây, theo hãng thông tấn Hàn Quốc Yonhap, Hàn Quốc sẽ chi lên 34,7 tỷ USD cho năm tài khóa 2017, đánh dấu 6 năm liên tiếp Seoul tăng ngân sách quốc phòng[4]. Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận với Mỹ về việc phát triển tên lửa đạn đạo tầm bắn lên tới 800km thay cho 300km như trước đây để đối phó với những đe dọa từ phía Bình Nhưỡng và sự gia tăng sức mạnh quân sự trong khu vực. Hàn Quốc cũng đang phát triển tên lửa hành trình siêu thanh có thể tấn công tàu sân bay, tàu khu trục. Nước này cũng dự định đóng thêm tàu khu trục được trang bị hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis (giai đoạn 2023 - 2027) nhằm nâng cao sức mạnh hải quân để ứng phó với nguy cơ tiềm ẩn xung quanh bán đảo Triều Tiên. Không chỉ đầu tư nâng cao sức mạnh của lực lượng hải quân, Hàn Quốc còn dự định đầu tư cho lực lượng không quân bằng kế hoạch mua máy bay chiến đấu F35, nâng cấp khả năng tác chiến cho máy bay F16 và mua thêm máy bay trực thăng, máy bay không người lái của Mỹ.
Đối với CHDCND Triều Tiên, sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đông Bắc Á, đặc biệt là các cuộc tập trận chung hàng năm giữa Mỹ và Hàn Quốc càng kích thích nước này quyết tâm phát triển chương trình hạt nhân và tên lửa. CHDCND Triều Tiên được cho là đã thực hiện 5 vụ thử hạt nhân vào các năm 2006, 2009, 2013, tháng 1 và 9-2016. Các nhà phân tích dự báo, CHDCND Triều Tiên đang chuẩn bị cho việc thử hạt nhân lần thứ 6. Việc CHDCND Triều Tiên thử hạt nhân, tên lửa là một trong những lý do làm cho các nước trong khu vực phải tăng cường phòng thủ bằng cách tích cực mua sắm, nâng cấp vũ khí trang bị, qua đó thúc đẩy việc gia tăng sức mạnh quân sự giữa các quốc gia khu vực Đông Bắc Á.
Bán đảo Triều Tiên chưa bao giờ bình yên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở đây đang tồn tại hai “ngòi nổ” là vấn đề vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và quan hệ đối đầu Bắc-Nam. Vấn đề hạt nhân ở đây rất phức tạp và đã kéo dài nhiều năm, vì nó liên quan tới lợi ích của nhiều nước trong “bàn cờ” chiến lược ở Đông Bắc Á và thế giới. Những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng nhiều nhất đến tình hình bán đảo Triều Tiên là Trung Quốc và Mỹ. Đối với Trung Quốc, sự ổn định của CHDCND Triều Tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích an ninh của Trung Quốc. Một kho vũ khí hạt nhân tồn tại cạnh sườn không những sẽ đe dọa trực tiếp đến an ninh Trung Quốc, mà còn là cái cớ để Mỹ can dự vào khu vực và cùng các đồng minh Hàn Quốc, Nhật Bản triển khai các hệ thống ngăn chặn mà thực tế là phòng tuyến bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với Mỹ, sự lớn mạnh của Liên Xô trước đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện tại, sự phát triển thần kỳ một thời của Nhật Bản… luôn là những lý do để Mỹ đứng chân ở đây và luôn coi Triều Tiên là “tiền duyên chiến lược” nhằm khống chế Đông Bắc Á. Mặc dù Mỹ coi CHDCND Triều Tiên là mối đe dọa an ninh đối với Mỹ và các đồng minh trong khu vực, nhưng một bán đảo Triều Tiên thống nhất và ổn định chưa hẳn là lợi ích của Mỹ vì lúc đó quân đội Mỹ không còn lý do ở lại bán đảo Triều Tiên và Đông Bắc Á. Điều này giải thích tại sao Triều Tiên lấy lý do phải đối phó với mối đe dọa của Mỹ để phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng các cuộc tập trận chung giữa Mỹ và Hàn Quốc nhằm vào Triều Tiên vẫn diễn ra hàng năm với quy mô ngày càng lớn, càng kích động nước này quyết tâm theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân. Cứ như thế tình hình ngày càng leo thang. Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã đi vào bế tắc nhiều năm nay và ngày càng trở nên nguy hiểm, các biện pháp trừng phạt của Liên hợp quốc cũng không mang lại hiệu quả. Sự bế tắc này suy cho cùng là do tính toán lợi ích chiến lược của các nước có liên quan.
Việc CHDCND Triều Tiên liên tiếp phóng thử tên lửa cũng đẩy an ninh khu vực vào “vòng tuần hoàn xấu”. Đầu tiên, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ký Hiệp định chia sẻ tin tức tình báo quân sự (11-2016). Sau khi ký kết hiệp định này, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể chia sẻ tin tức tình báo quân sự mà không phải thông qua Mỹ. Tiếp đó, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản tăng cường sự hiện diện quân sự, mở rộng quy mô diễn tập quân sự. Mỹ cũng đổ trách nhiệm cho Trung Quốc đã không tích cực trong việc kiềm chế Bình Nhưỡng phát triển chương trình hạt nhân. Đáng chú ý, sau khi CHDCND Triều Tiên phóng thử 4 tên lửa ngày 6-3-2017, Mỹ lập tức triển khai 2 bệ phóng của hệ thống THAAD đến căn cứ không quân Osan, Hàn Quốc. Mặc dù trong kế hoạch, THAAD không được đưa đến Nhật Bản nhưng nhiều phân tích cho rằng, việc CHDCND Triều Tiên liên tục phóng tên lửa có thể khiến Tokyo cân nhắc một cách nghiêm túc hơn việc sử dụng hệ thống này. Trước khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ đầu tiên kể từ sau khi D.Trump nhậm chức Tổng thống, mà ở đó dự kiến vấn đề Triều Tiên sẽ là một chủ đề chính, Triều Tiên lại tiếp tục thử tiên lửa như là một hành động thách thức hai cường quốc có ảnh hưởng nhất đối với khu vực này. Tình hình căng thẳng ở Đông Bắc Á lại bị đẩy lên một nấc thang mới. Cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ gần như không đạt được tiến bộ nào về vấn đề chương trình hạt nhân của Triều Tiên ngoài việc hai bên đều cho rằng nó đã đạt tới “giai đoạn nghiêm trọng”. Thêm vào đó, vào đúng thời điểm diễn ra cuộc gặp nhạy cảm này, Tổng thống D.Trump ra lệnh phóng gần 60 quả tên lửa hành trình Tomahawk vào sân bay quân sự Syria, như là một thông điệp răn đe rằng, nếu Trung Quốc không hợp tác, Mỹ sẵn sàng hành động đơn phương và không loại trừ giải pháp quân sự đối với Triều Tiên. Tuy nhiên nếu tình huống này xẩy ra, CHDCND Triều Tiên không cam chịu cúi đầu, có thể Seoul và Nhật Bản sẽ là mục tiêu tấn công đầu tiên của Triều Tiên. Hơn nữa Trung Quốc không thể khoanh tay đứng nhìn, tai họa sẽ lan ra toàn bộ khu vực Đông Bắc Á, hậu quả khó lường. Khả năng này khó đoán định bởi quyền quyết định nằm trong tay Tổng thống D.Trump, một nhân vật có tính khí thất thường, khó đoán định.
Trên thực tế, Trung Quốc đã có những nhượng bộ nhất định như việc cấm nhập khẩu than đá của CHDCND Triều Tiên cho tới hết năm 2017. Hành động này của Trung Quốc mang ý nghĩa gửi đi thông điệp cảnh báo mạnh mẽ tới CHDCND Triều Tiên, bởi than đá là mặt hàng xuất khẩu chính và chiếm tới 90% hoạt động thương mại của Bình Nhưỡng. Đây còn là thông điệp gửi tới Tổng thống D.Trump bởi nhà lãnh đạo Mỹ nhiều lần chỉ trích Trung Quốc chưa tích cực kiềm chế tham vọng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Nhưng nếu Mỹ đòi hỏi nhiều hơn ở Trung Quốc là điều không thực tế, bởi một mặt Trung Quốc không thể làm cho chế độ CHDCND Triều Tiên lâm vào khủng hoảng, mặt khác trên thực tế khả năng kiềm chế của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng là rất có hạn.
Liên quan đến bán đảo Triều Tiên, tình hình căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đang tiếp tục leo thang do việc Mỹ và Hàn Quốc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Vấn đề này cũng là một ẩn số khó dự báo bởi tình hình nội bộ Hàn Quốc đang thời điểm phức tạp, không loại trừ khả năng Tổng thống đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 5 tới có lập trường khác biệt về vấn đề này. Trong trường hợp đó, tình hình có thể thay đổi hoàn toàn.
Tình hình biển Hoa Đông cũng tiếp tục được coi là điểm nóng trong khu vực. Trong chuyến thăm Nhật Bản tháng 2-2017, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis khẳng định, Chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ giữ nguyên cam kết bảo vệ Nhật Bản với tư cách một đối tác theo Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, trong đó bao gồm cả quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Điều 5 của Hiệp ước nêu rõ, lực lượng của Mỹ và Nhật Bản sẽ phối hợp đáp trả bất cứ cuộc tấn công nào nhằm vào lãnh thổ do Nhật Bản kiểm soát. Giáo sư Viện quan hệ quốc tế thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc Zhou Yongsheng nhận định: “Tuyên bố đảo Điếu Ngư cũng thuộc diện theo Điều 5 (Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật) là dấu hiệu cho thấy chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ tiếp tục chiến lược xoay trục sang châu Á có từ thời chính quyền tiền nhiệm, và đó là tin xấu cho Bắc Kinh. Điều này có nghĩa là chính quyền Tổng thống D.Trump sẽ không chỉ thừa hưởng chiến lược xoay trục sang châu Á mà thậm chí còn đưa nó lên một tầm mới”[8].
Hiện quan hệ Mỹ - Trung xung quanh vấn đề Đông Bắc Á đang tồn tại nhiều mâu thuẫn và hết sức căng thẳng. Tuy nhiên có thể thấy rõ, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai cường quốc này vẫn chiếm ưu thế. Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc, chiếm gần 20% xuất khẩu của Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc chiếm 9% hàng hóa xuất khẩu của Mỹ. Trên lĩnh vực tài chính, hai nước liên quan mật thiết với nhau. Dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có khoảng hơn 3.000 tỷ USD và nước này vẫn tiếp tục đầu tư vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Nếu mối quan hệ giữa hai siêu cường này đổ vỡ, Mỹ sẽ khó tìm nguồn tài trợ cho khoản nợ trên thị trường tài chính nước ngoài. Trung Quốc là chủ nợ số một của Mỹ, giữ gần 7% nợ công của Mỹ, khoảng 1.250 tỷ USD. Ngay cả tập đoàn kinh tế của Tổng thống D.Trump và của con gái ông cũng có quan hệ làm ăn mật thiết với Trung Quốc. Vì thế, người ta cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tìm cách kiềm chế, không để quan hệ hai nước rơi vào tình trạng khủng hoảng và nhiều khả năng an ninh Đông Bắc Á vẫn tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát.
[1] An ninh Đông Bắc Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ, TS Hoàng Minh Hằng, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, NXB khoa học xã hội 2015 [2] THAAD là hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung trong giai đoạn cuối của chuyến bay. Hệ thống radar mà THAAD sử dụng thuộc loại radar quét mạng pha điện tử chủ động (AESA) có khả năng nhận dạng mục tiêu rất cao. Radar có tầm trinh sát khoảng 1.000 km, có thể mở rộng lên đến 4.000 km. [3] Nhật Bản tăng chi tiêu quốc phòng kỷ lục trong năm 2017, Báo Quân đội Nhân dân, ngày 2-12-2016. [4] Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11-3-2017. [5] Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku là nhóm đảo nhỏ nằm cách đảo chính của tỉnh Okinawa của Nhật Bản khoảng 40km về phía tây và hiện do Nhật Bản kiểm soát, nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và thường xuyên đưa tàu hoặc máy bay đến vùng biển xung quanh quần đảo này. [6] Đảo Dokdo/Takeshima nằm ở vùng biển phía đông bán đảo Triều Tiên, có diện tích khoảng 0,18 km vuông. Hàn Quốc và Nhật Bản đều tuyên bố chủ quyền. Hiện Hàn Quốc kiểm soát thực tế hòn đảo này. [7] Bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo nằm cách đảo Jeru của Hàn Quốc khoảng 150km về phía Tây Nam do Hàn Quốc quản lý, Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền với đảo đá này. [8] Mỹ sẽ đứng về phía Nhật trong tranh chấp ở Hoa Đông, www.dantri.com.vn, ngày 4-2-2017.
Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Bắc Á Đối với Mỹ Mỹ không chỉ ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp với Trung Quốc về đảo Senkaku/Điếu Ngư đã làm cho liên minh Mỹ - Nhật trở nên gắn kết chặt chẽ hơn, mà còn ủng hộ Nhật Bản trong việc giải thích lại Hiến pháp để có một lực lượng quân sự đủ mạnh và thực hiện quyền phòng vệ tập thể với quân đội Mỹ. Trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến thăm Nhật Bản (4-2014), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel nhấn mạnh: “Mỹ hoan nghênh nỗ lực của Nhật Bản nhằm đóng một vai trò chủ động hơn trong liên minh, bao gồm xem xét diễn giải lại Hiến pháp liên quan đến quyền phòng vệ tập thể”[1]. Mỹ đã triển khai hệ thống ra-đa phòng thủ tên lửa X-band thứ hai tại tỉnh miền trung Kyoto của Nhật Bản vào cuối năm 2014. Việc Mỹ thảo luận với Nhật Bản bố trí lại lực lượng quân sự Mỹ đóng tại Okinawa, xem xét lại quan hệ đồng minh đã cho thấy nước này tiếp tục quan tâm đến vấn đề an ninh khu vực trong tình hình mới. Quan hệ liên minh Mỹ - Hàn được thúc đẩy với việc hai bên ký Hiệp định Tầm nhìn chung về liên minh năm 2009, nhấn mạnh mối quan hệ kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn giữa hai bên. Hiệp định này cũng đã tạo cơ sở cho Mỹ ký Hiệp ước thương mại tự do với Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 3-2012), mà giới phân tích cho là mang tính toàn diện nhất trên thế giới hiện nay. Mối đe dọa từ phía CHDCND Triều Tiên làm cho quan hệ Mỹ - Hàn càng thắt chặt hơn. Các cuộc diễn tập chung hàng năm giữa hai nước phô trương sức mạnh vừa răn đe CHDCND Triều Tiên nhưng cũng là răn đe Trung Quốc. Đặc biệt, Mỹ đã đạt được thỏa thuận về việc triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD)[2] tại Hàn Quốc. Mặc dù, cả Mỹ và Hàn Quốc đều khẳng định hệ thống phòng thủ tên lửa này là một biện pháp đối phó với mối đe dọa từ CHDCND Triều Tiên, song ai cũng thấy rõ, với sự bố trí này, Mỹ sẽ giành nhiều lợi thế trong tương quan lực lượng quân sự với Trung Quốc.
Trước hết, Nhật Bản đẩy nhanh quá trình trở thành một “quốc gia bình thường” để có đủ thế và lực trên tất cả các phương diện, nhất là về quốc phòng - an ninh. Nhật Bản đã nâng cấp Cục phòng vệ lên thành Bộ Quốc phòng (2007), thành lập Hội đồng An ninh quốc gia theo mô hình Mỹ (2014) và thông qua chiến lược an ninh quốc gia mới (2015). Cốt lõi của chiến lược này là dỡ bỏ lệnh cấm quyền phòng vệ tập thể, tạo điều kiện cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản triển khai các hoạt động quân sự ở nước ngoài. Nhật Bản cũng tiến hành tái bố trí lực lượng và tăng cường mua sắm các trang thiết bị quân sự cho Lực lượng Phòng vệ. Quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép triển khai vệ tinh quân sự, tăng cường vũ khí và các phương tiện hiện đại hàng đầu thế giới như tàu sân bay trực thăng lớp Izumo, tàu ngầm Soryu, tàu khu trục mang tên lửa điều khiển lớp Atago, máy bay MV-22 Osprey của Mỹ... Nhật Bản đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng để mua sắm trang thiết bị vũ khí (42 tỷ USD năm 2015, 41,8 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 46,4 tỷ USD)[3]. Ngoài ra, nước này cũng nới lỏng quy định cấm xuất khẩu vũ khí để mở đường cho các công ty trong nước tham gia các dự án xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài.
Trước những biến động trong khu vực, nhất là việc CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân và tên lửa đã khiến Hàn Quốc tăng cường hơn nữa sức mạnh quân sự và hợp tác với Mỹ về an ninh quốc phòng. Đặc biệt, sau vụ chìm tàu Cheonan tháng 3-2010 và đấu pháo sau đó giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên, phía Hàn Quốc đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng. Mới đây, theo hãng thông tấn Hàn Quốc Yonhap, Hàn Quốc sẽ chi lên 34,7 tỷ USD cho năm tài khóa 2017, đánh dấu 6 năm liên tiếp Seoul tăng ngân sách quốc phòng[4]. Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận với Mỹ về việc phát triển tên lửa đạn đạo tầm bắn lên tới 800km thay cho 300km như trước đây để đối phó với những đe dọa từ phía Bình Nhưỡng và sự gia tăng sức mạnh quân sự trong khu vực. Hàn Quốc cũng đang phát triển tên lửa hành trình siêu thanh có thể tấn công tàu sân bay, tàu khu trục. Nước này cũng dự định đóng thêm tàu khu trục được trang bị hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis (giai đoạn 2023 - 2027) nhằm nâng cao sức mạnh hải quân để ứng phó với nguy cơ tiềm ẩn xung quanh bán đảo Triều Tiên. Không chỉ đầu tư nâng cao sức mạnh của lực lượng hải quân, Hàn Quốc còn dự định đầu tư cho lực lượng không quân bằng kế hoạch mua máy bay chiến đấu F35, nâng cấp khả năng tác chiến cho máy bay F16 và mua thêm máy bay trực thăng, máy bay không người lái của Mỹ.
Đối với CHDCND Triều Tiên, sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đông Bắc Á, đặc biệt là các cuộc tập trận chung hàng năm giữa Mỹ và Hàn Quốc càng kích thích nước này quyết tâm phát triển chương trình hạt nhân và tên lửa. CHDCND Triều Tiên được cho là đã thực hiện 5 vụ thử hạt nhân vào các năm 2006, 2009, 2013, tháng 1 và 9-2016. Các nhà phân tích dự báo, CHDCND Triều Tiên đang chuẩn bị cho việc thử hạt nhân lần thứ 6. Việc CHDCND Triều Tiên thử hạt nhân, tên lửa là một trong những lý do làm cho các nước trong khu vực phải tăng cường phòng thủ bằng cách tích cực mua sắm, nâng cấp vũ khí trang bị, qua đó thúc đẩy việc gia tăng sức mạnh quân sự giữa các quốc gia khu vực Đông Bắc Á.
Bán đảo Triều Tiên chưa bao giờ bình yên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở đây đang tồn tại hai “ngòi nổ” là vấn đề vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và quan hệ đối đầu Bắc-Nam. Vấn đề hạt nhân ở đây rất phức tạp và đã kéo dài nhiều năm, vì nó liên quan tới lợi ích của nhiều nước trong “bàn cờ” chiến lược ở Đông Bắc Á và thế giới. Những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng nhiều nhất đến tình hình bán đảo Triều Tiên là Trung Quốc và Mỹ. Đối với Trung Quốc, sự ổn định của CHDCND Triều Tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích an ninh của Trung Quốc. Một kho vũ khí hạt nhân tồn tại cạnh sườn không những sẽ đe dọa trực tiếp đến an ninh Trung Quốc, mà còn là cái cớ để Mỹ can dự vào khu vực và cùng các đồng minh Hàn Quốc, Nhật Bản triển khai các hệ thống ngăn chặn mà thực tế là phòng tuyến bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với Mỹ, sự lớn mạnh của Liên Xô trước đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện tại, sự phát triển thần kỳ một thời của Nhật Bản… luôn là những lý do để Mỹ đứng chân ở đây và luôn coi Triều Tiên là “tiền duyên chiến lược” nhằm khống chế Đông Bắc Á. Mặc dù Mỹ coi CHDCND Triều Tiên là mối đe dọa an ninh đối với Mỹ và các đồng minh trong khu vực, nhưng một bán đảo Triều Tiên thống nhất và ổn định chưa hẳn là lợi ích của Mỹ vì lúc đó quân đội Mỹ không còn lý do ở lại bán đảo Triều Tiên và Đông Bắc Á. Điều này giải thích tại sao Triều Tiên lấy lý do phải đối phó với mối đe dọa của Mỹ để phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng các cuộc tập trận chung giữa Mỹ và Hàn Quốc nhằm vào Triều Tiên vẫn diễn ra hàng năm với quy mô ngày càng lớn, càng kích động nước này quyết tâm theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân. Cứ như thế tình hình ngày càng leo thang. Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã đi vào bế tắc nhiều năm nay và ngày càng trở nên nguy hiểm, các biện pháp trừng phạt của Liên hợp quốc cũng không mang lại hiệu quả. Sự bế tắc này suy cho cùng là do tính toán lợi ích chiến lược của các nước có liên quan.
Việc CHDCND Triều Tiên liên tiếp phóng thử tên lửa cũng đẩy an ninh khu vực vào “vòng tuần hoàn xấu”. Đầu tiên, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ký Hiệp định chia sẻ tin tức tình báo quân sự (11-2016). Sau khi ký kết hiệp định này, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể chia sẻ tin tức tình báo quân sự mà không phải thông qua Mỹ. Tiếp đó, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản tăng cường sự hiện diện quân sự, mở rộng quy mô diễn tập quân sự. Mỹ cũng đổ trách nhiệm cho Trung Quốc đã không tích cực trong việc kiềm chế Bình Nhưỡng phát triển chương trình hạt nhân. Đáng chú ý, sau khi CHDCND Triều Tiên phóng thử 4 tên lửa ngày 6-3-2017, Mỹ lập tức triển khai 2 bệ phóng của hệ thống THAAD đến căn cứ không quân Osan, Hàn Quốc. Mặc dù trong kế hoạch, THAAD không được đưa đến Nhật Bản nhưng nhiều phân tích cho rằng, việc CHDCND Triều Tiên liên tục phóng tên lửa có thể khiến Tokyo cân nhắc một cách nghiêm túc hơn việc sử dụng hệ thống này. Trước khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ đầu tiên kể từ sau khi D.Trump nhậm chức Tổng thống, mà ở đó dự kiến vấn đề Triều Tiên sẽ là một chủ đề chính, Triều Tiên lại tiếp tục thử tiên lửa như là một hành động thách thức hai cường quốc có ảnh hưởng nhất đối với khu vực này. Tình hình căng thẳng ở Đông Bắc Á lại bị đẩy lên một nấc thang mới. Cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ gần như không đạt được tiến bộ nào về vấn đề chương trình hạt nhân của Triều Tiên ngoài việc hai bên đều cho rằng nó đã đạt tới “giai đoạn nghiêm trọng”. Thêm vào đó, vào đúng thời điểm diễn ra cuộc gặp nhạy cảm này, Tổng thống D.Trump ra lệnh phóng gần 60 quả tên lửa hành trình Tomahawk vào sân bay quân sự Syria, như là một thông điệp răn đe rằng, nếu Trung Quốc không hợp tác, Mỹ sẵn sàng hành động đơn phương và không loại trừ giải pháp quân sự đối với Triều Tiên. Tuy nhiên nếu tình huống này xẩy ra, CHDCND Triều Tiên không cam chịu cúi đầu, có thể Seoul và Nhật Bản sẽ là mục tiêu tấn công đầu tiên của Triều Tiên. Hơn nữa Trung Quốc không thể khoanh tay đứng nhìn, tai họa sẽ lan ra toàn bộ khu vực Đông Bắc Á, hậu quả khó lường. Khả năng này khó đoán định bởi quyền quyết định nằm trong tay Tổng thống D.Trump, một nhân vật có tính khí thất thường, khó đoán định.
Trên thực tế, Trung Quốc đã có những nhượng bộ nhất định như việc cấm nhập khẩu than đá của CHDCND Triều Tiên cho tới hết năm 2017. Hành động này của Trung Quốc mang ý nghĩa gửi đi thông điệp cảnh báo mạnh mẽ tới CHDCND Triều Tiên, bởi than đá là mặt hàng xuất khẩu chính và chiếm tới 90% hoạt động thương mại của Bình Nhưỡng. Đây còn là thông điệp gửi tới Tổng thống D.Trump bởi nhà lãnh đạo Mỹ nhiều lần chỉ trích Trung Quốc chưa tích cực kiềm chế tham vọng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Nhưng nếu Mỹ đòi hỏi nhiều hơn ở Trung Quốc là điều không thực tế, bởi một mặt Trung Quốc không thể làm cho chế độ CHDCND Triều Tiên lâm vào khủng hoảng, mặt khác trên thực tế khả năng kiềm chế của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng là rất có hạn.
Liên quan đến bán đảo Triều Tiên, tình hình căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đang tiếp tục leo thang do việc Mỹ và Hàn Quốc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Vấn đề này cũng là một ẩn số khó dự báo bởi tình hình nội bộ Hàn Quốc đang thời điểm phức tạp, không loại trừ khả năng Tổng thống đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 5 tới có lập trường khác biệt về vấn đề này. Trong trường hợp đó, tình hình có thể thay đổi hoàn toàn.
Tình hình biển Hoa Đông cũng tiếp tục được coi là điểm nóng trong khu vực. Trong chuyến thăm Nhật Bản tháng 2-2017, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis khẳng định, Chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ giữ nguyên cam kết bảo vệ Nhật Bản với tư cách một đối tác theo Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, trong đó bao gồm cả quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Điều 5 của Hiệp ước nêu rõ, lực lượng của Mỹ và Nhật Bản sẽ phối hợp đáp trả bất cứ cuộc tấn công nào nhằm vào lãnh thổ do Nhật Bản kiểm soát. Giáo sư Viện quan hệ quốc tế thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc Zhou Yongsheng nhận định: “Tuyên bố đảo Điếu Ngư cũng thuộc diện theo Điều 5 (Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật) là dấu hiệu cho thấy chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ tiếp tục chiến lược xoay trục sang châu Á có từ thời chính quyền tiền nhiệm, và đó là tin xấu cho Bắc Kinh. Điều này có nghĩa là chính quyền Tổng thống D.Trump sẽ không chỉ thừa hưởng chiến lược xoay trục sang châu Á mà thậm chí còn đưa nó lên một tầm mới”[8].
Hiện quan hệ Mỹ - Trung xung quanh vấn đề Đông Bắc Á đang tồn tại nhiều mâu thuẫn và hết sức căng thẳng. Tuy nhiên có thể thấy rõ, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai cường quốc này vẫn chiếm ưu thế. Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc, chiếm gần 20% xuất khẩu của Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc chiếm 9% hàng hóa xuất khẩu của Mỹ. Trên lĩnh vực tài chính, hai nước liên quan mật thiết với nhau. Dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có khoảng hơn 3.000 tỷ USD và nước này vẫn tiếp tục đầu tư vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Nếu mối quan hệ giữa hai siêu cường này đổ vỡ, Mỹ sẽ khó tìm nguồn tài trợ cho khoản nợ trên thị trường tài chính nước ngoài. Trung Quốc là chủ nợ số một của Mỹ, giữ gần 7% nợ công của Mỹ, khoảng 1.250 tỷ USD. Ngay cả tập đoàn kinh tế của Tổng thống D.Trump và của con gái ông cũng có quan hệ làm ăn mật thiết với Trung Quốc. Vì thế, người ta cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tìm cách kiềm chế, không để quan hệ hai nước rơi vào tình trạng khủng hoảng và nhiều khả năng an ninh Đông Bắc Á vẫn tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát.
[1] An ninh Đông Bắc Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ, TS Hoàng Minh Hằng, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, NXB khoa học xã hội 2015 [2] THAAD là hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung trong giai đoạn cuối của chuyến bay. Hệ thống radar mà THAAD sử dụng thuộc loại radar quét mạng pha điện tử chủ động (AESA) có khả năng nhận dạng mục tiêu rất cao. Radar có tầm trinh sát khoảng 1.000 km, có thể mở rộng lên đến 4.000 km. [3] Nhật Bản tăng chi tiêu quốc phòng kỷ lục trong năm 2017, Báo Quân đội Nhân dân, ngày 2-12-2016. [4] Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11-3-2017. [5] Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku là nhóm đảo nhỏ nằm cách đảo chính của tỉnh Okinawa của Nhật Bản khoảng 40km về phía tây và hiện do Nhật Bản kiểm soát, nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và thường xuyên đưa tàu hoặc máy bay đến vùng biển xung quanh quần đảo này. [6] Đảo Dokdo/Takeshima nằm ở vùng biển phía đông bán đảo Triều Tiên, có diện tích khoảng 0,18 km vuông. Hàn Quốc và Nhật Bản đều tuyên bố chủ quyền. Hiện Hàn Quốc kiểm soát thực tế hòn đảo này. [7] Bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo nằm cách đảo Jeru của Hàn Quốc khoảng 150km về phía Tây Nam do Hàn Quốc quản lý, Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền với đảo đá này. [8] Mỹ sẽ đứng về phía Nhật trong tranh chấp ở Hoa Đông, www.dantri.com.vn, ngày 4-2-2017. |
Trung Quốc và sáng kiến "Một vành đai, Một con đường": Có khó thực hiện?![]() Trong hai ngày (14 - 15/5), Diễn đàn hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy liên kế kinh tế, kết nối khu vực giữa các châu lục, Á, Âu và Phi do Trung Quốc tổ chức sẽ diễn ra tại Bắc Kinh. Diễn đàn mang tên Hợp tác quốc tế Vành đai và Con đường, thu hút sự tham dự của 28 nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ. Đoàn Việt Nam do Chủ tịch nước Trần Đại Quang dẫn đầu tham dự. |
Phó Đại sứ Anh tại Việt Nam đến thăm Trung tâm CSSDNgày 08/02/2017, ông Steph Lysaght, Phó Đại sứ Anh tại Việt Nam; và Bà Barbara Amono-Oceng, Trưởng ban Chính trị Đối ngoại đã đến "xông đất" Trung tâm CSSD đầu năm Âm lịch 2017. |