Chủ tịch CSSD tọa đàm với Đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam

Chủ tịch CSSD tọa đàm với Đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam

Tiếp và làm việc với GS. Srikanth Kondapalli

Tiếp và làm việc với GS. Srikanth Kondapalli
Tác giả: CSSD

Ngày 06/12/2017,  Chủ tịch Trung tâm CSSD Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Trường cùng các Cố vấn cao cấp đã tiếp và làm việc với GS. Srikanth Kondapalli, Chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc thuộc Đại học Jawaharlal Nehru.

Xem thêm

Tọa đàm “Chính sách của Mỹ đối với châu Á và quan hệ Mỹ - Trung”

Tọa đàm “Chính sách của Mỹ đối với châu Á và quan hệ Mỹ - Trung”
Tác giả: CSSD

Ngày 16/11/2017, Trung tâm CSSD tổ chức tọa đàm “Chính sách của Mỹ đối với châu Á và quan hệ Mỹ - Trung”.

Xem thêm

Về Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc

Về Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc
Tác giả: CSSD

Nguyễn Vinh Quang

Cố vấn cao cấp CSSD

 

Xem thêm

Chuyên gia: Đại hội 19 sẽ tác động tích cực tới quan hệ Trung-Việt

Chuyên gia: Đại hội 19 sẽ tác động tích cực tới quan hệ Trung-Việt
Tác giả: CSSD

(TTXVN) Nhân dịp Đại hội lần thứ 19 Đảng Cộng sản Trung Quốc diễn ra từ ngày 18-24/10, phóng viên TTXVN có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Vinh Quang, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Phát triển quốc tế về quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt Nam-Trung Quốc, Phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc những thành tựu đã đạt được và triển vọng quan hệ hai nước trong thời gian tới. 

 

Xem thêm

40 năm quan hệ Việt Nam-Liên Hợp Quốc: Một lời hẹn ước

40 năm quan hệ Việt Nam-Liên Hợp Quốc: Một lời hẹn ước
Tác giả: CSSD

(Chinhphu.vn)  - Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập Liên Hợp Quốc (LHQ), đến nay vừa tròn 40 năm. Chặng đường này đã ghi nhận sự hợp tác sâu rộng và hiệu quả giữa Việt Nam và tổ chức quốc tế lớn nhất và quan trọng nhất của thế giới hiện đại.

 

Duyên phận

 

Năm 1945-1946, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư tới các nhà lãnh đạo những nước sáng lập LHQ bày tỏ ý nguyện Việt Nam sẵn sàng hợp tác với LHQ, đề cao Hiến chương LHQ và yêu cầu tổ chức này “thực hiện lời hứa long trọng của mình là tất cả các dân tộc đều được hưởng dân chủ và độc lập”...

 

Cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân của nhân dân Việt Nam, với thắng lợi vĩ đại Điện Biên Phủ năm 1954, đã góp phần thức tỉnh các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân nô dịch, kích hoạt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới giữa thế kỷ 20. Việc LHQ thông qua Nghị quyết 1514 ngày 14/12/1960 trao trả độc lập cho các nước thuộc địa có sự đóng góp bằng xương máu của nhân dân Việt Nam.

 

Nằm trong ý tưởng của những nước lớn thành viên sáng lập, LHQ là một tổ chức quốc tế đa phương, một kiến trúc an ninh tập thể nhằm duy trì trật tự thế giới hình thành từ thành quả tiến bộ sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Hiến chương LHQ đề ra các nguyên tắc cơ bản, các giá trị cốt lõi về tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ, giải quyết hoà bình tranh chấp, không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực, thúc đẩy tiến bộ xã hội...

 

LHQ đã chứng tỏ là một diễn đàn quan trọng để các nước vừa và nhỏ bảo vệ các quyền cơ bản được ghi trong Hiến chương. Các cuộc đấu tranh đầy hy sinh gian khổ của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc đã góp phần có ý nghĩa củng cố những giá trị ấy.

 

Hai giai đoạn hợp tác chủ yếu

 

Trong 40 năm qua, LHQ luôn đồng hành cùng Việt Nam trên các chặng đường xây dựng và phát triển. Quan hệ Việt Nam-LHQ trải qua hai thời kỳ chủ yếu: Từ năm 1977 đến cuối những năm 1980 và từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới đến ngày nay.

 

Trong giai đoạn đầu, Việt Nam vừa ra khỏi chiến tranh, lại vướng vào các cuộc xung đột với các nước láng giềng và chịu sự bao vây cấm vận, LHQ là một trong các cửa ngõ quan trọng để Việt Nam tiếp cận với thế giới.

 

Đây là một giai đoạn hết sức khó khăn. Đại hội đồng LHQ khóa 32 (1977) đã thông qua Nghị quyết kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh.

 

Sự hỗ trợ quý báu của các tổ chức LHQ, đặc biệt là Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Cao ủy LHQ về người tị nạn (UNHCR), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO)… đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam giải quyết hậu quả nặng nề của chiến tranh, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội, hội nhập vào các cơ chế đa phương của thế giới. Điều quan trọng, Việt Nam đã vận dụng các diễn đàn quốc tế để đấu tranh và vượt qua sự chống phá của các thế lực thù địch.

 

Trong giai đoạn Đổi mới của Việt Nam, sự hợp tác giữa Việt Nam và LHQ không ngừng phát triển trên nhiều lĩnh vực, thông qua các hoạt động tư vấn chính sách, trợ giúp kỹ thuật, các chương trình, dự án hỗn hợp song phương, đa phương, và huy động được nguồn vốn quan trọng từ các nước tài trợ và các tổ chức tài chính quốc tế.

 

Bằng nội lực và sự hợp tác quốc tế hiệu quả, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực và có trách nhiệm, tham gia ngày càng chủ động và có hiệu quả vào nhiều lĩnh vực hoạt động của LHQ.

 

Nước ta đã tích cực tham gia Sáng kiến “Thống nhất hành động”; triển khai thành công Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững; tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và các hoạt động gìn giữ hòa bình của LHQ. Các nhà ngoại giao và cán bộ chuyên môn các ban ngành của Việt Nam ngày càng trưởng thành, tham gia lão luyện vào các “sân chơi” của các cơ chế của LHQ, như Hội đồng Bảo an LHQ, Hội đồng Kinh tế-xã hội, Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng Chấp hành UNESCO, Ủy ban Luật pháp quốc tế.

 

Với việc Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp, hợp tác giữa Việt Nam và LHQ chuyển trọng tâm từ hỗ trợ kỹ thuật sang tư vấn chính sách thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, tập trung vào các lĩnh vực như xoá đói giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng thể chế, bình đẳng giới...

 

Đồng thời, phù hợp với các giá trị cốt lõi của đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nước ta đã đi đầu trong việc thúc đẩy thực thi các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ vì sự tiến bộ của nhân loại; đấu tranh bảo vệ các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982…

 

Để đưa quan hệ Việt Nam-LHQ lên một tầng nấc mới, chúng ta cần tăng cường thực lực quốc gia. Như Chủ tịch Hồ Chí minh từng nói: “Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to, tiếng mới lớn”.

 

Thực hiện cuộc đổi mới 2:0, vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” theo các tiêu chí của LHQ, Việt Nam sẽ có điều kiện đóng góp tích cực và hiệu quả hơn nữa cho hoạt động của LHQ, thông qua đó tối ưu hóa lợi ích quốc gia, đồng thời nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, đóng góp vào sự tiến bộ của tổ chức quốc tế đa phương quan trọng nhất hiện nay.

 

TS. Nguyễn Ngọc Trường 
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và phát triển quốc tế

Xem thêm

Vì một cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết

Vì một cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết
Tác giả: CSSD

(Chinhphu.vn) - Cộng đồng ASEAN cần phải tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, nhằm xây dựng thành công một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết và có tiếng nói quan trọng trong các vấn đề khu vực và quốc tế.

Cách đây 50 năm, Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thành lập tại Bangkok. Sự kiện này diễn ra vào lúc Chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn quyết liệt. 5 thành viên sáng lập cảm thấy bất an trước sự đối đầu của các nước lớn, mong muốn tạo ra một liên kết chính trị và an ninh nhằm đối phó với những bất trắc tại khu vực thời kỳ “hậu Chiến tranh Việt Nam”. Nhưng trong không khí Chiến tranh lạnh bao trùm chính trị thế giới, sự kiện này đã không gây được nhiều sự chú ý.
Nửa thế kỷ trôi qua, ASEAN đã làm nên lịch sử, với ba thành tựu nổi bật nhất:
Đến năm 1999, ASEAN đã thành một tổ chức khu vực gồm 10 quốc gia thành viên, hoạt động dưới mái nhà chung, với 625 triệu dân, thương mại nội khối hơn một nghìn tỷ USD, góp phần quan trọng xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và phát triển.
Từ một khu vực có nhiều điểm khác biệt, các quốc gia xung đột và nghi ngờ lẫn nhau, ASEAN ngày nay là đối tác của phát triển, của hội nhập khu vực và thế giới, dưới một ngọn cờ chung, dựa trên những nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết các bất đồng, xung đột một cách hòa bình, thông qua cơ chế chính thức và không chính thức. Từ một cơ cấu hợp tác tiểu khu vực đã trở thành tổ chức hợp tác khu vực toàn diện, tạo được bản sắc và phương cách riêng, cùng với Cộng đồng châu Âu (EU), là tổ chức khu vực bền vững nhất trong thế giới đương đại.
ASEAN đã đóng góp có ý nghĩa quan trọng vào duy trì môi trường hòa bình và an ninh tại Đông Á, tạo ra các cơ chế thích hợp về chính trị và an ninh, “đóng vai trò dẫn dắt các cơ chế khu vực”, để tất cả các nước liên quan, bao gồm các nước lớn ở châu Á-Thái Bình Dương, đối thoại và hợp tác vì hòa bình và an ninh, trong tình hình châu Á-Thái Bình Dương không ngừng biến đổi và biến động, tạo điều kiện tìm kiếm và xây dựng một cơ cấu an ninh và trật tự khu vực phù hợp với tương quan lực lượng mới.
Hiện tại, ASEAN đứng trước ba thách thức lớn:
Thứ nhất, ASEAN đang bước sang kỷ nguyên mới, với các thách thức trong việc xây dựng Cộng đồng và liên kết nội khối sao cho hiệu quả, thiết thực, có “văn hóa thực thi”, thúc đẩy an sinh xã hội, tăng cường phục vụ lợi ích của người dân các nước thành viên. Điều đáng tiếc, trải qua gần hai thập kỷ phấn đấu, ASEAN vẫn chưa lấp được khoảng cách giữa các thành viên “khá giả” và các thành viên “trình độ phát triển thấp”.
Thứ hai, duy trì liên kết và đoàn kết thực sự, giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ với các nước lớn, vì lợi ích quốc gia mình cũng như lợi ích của cộng đồng ASEAN, không vì cái này mà hy sinh cái kia.
Thứ ba, Đông Nam Á từ thế kỷ 20 đến nay luôn là tiêu điểm của cạnh tranh và giành giật ảnh hưởng giữa các nước lớn – đó vừa là đặc điểm vừa là “định mệnh” của khu vực này do vị trí địa chiến lược đặc biệt của nó.
ASEAN đang đứng trước sự cạnh tranh chiến lược hết sức gay gắt giữa các nước lớn liên quan. Các nước lớn đang tìm cách lợi dụng, tạo ra sự phân cực về mặt chính trị trong tổ chức và phân hóa hàng ngũ ASEAN. Vì vậy, các thành viên cần làm sao để ASEAN giữ vững đoàn kết nhất trí, tích cực, chủ động, có như thế mới phát huy được vai trò trung tâm trong các cơ chế khu vực và giữ cho khu vực này hòa bình, trung lập, ổn định và phát triển.
Cộng đồng ASEAN cần phải tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, nhằm xây dựng thành công một Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết và có tiếng nói quan trọng trong các vấn đề khu vực và quốc tế.
Quan trọng hơn cả vẫn là đoàn kết, nhất trí trong nội bộ khối và giữ vững độc lập, tự chủ của tổ chức. Đồng thời, phải làm cho các thành viên và toàn khối mạnh – mạnh về thực lực, mạnh về tổ chức, ta có mạnh thì các nước lớn mới tôn trọng ta, “đếm xỉa” tới ta, và ta mới tham gia được vào cuộc chơi chiến lược giữa các nước lớn, chứ không phải làm con “tốt đen” trên bàn cờ chiến lược ấy.
Giải quyết vấn đề Biển Đông quan trọng đối với hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không tại Biển Đông, cũng như đối với hòa bình, ổn định của Đông Nam Á. Ngày 6/8, Ngoại trưởng Trung Quốc và Ngoại trưởng của các nước ASEAN đã thông qua dự thảo khung Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC). Đây là một bước tiến tích cực hướng tới giải quyết hòa bình các tranh chấp trên Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế. Từ kết quả này, các bên cần sớm khởi động đàm phán thực chất COC có hiệu lực và ràng buộc về pháp lý.
Việt Nam gia nhập ASEAN là một sự kiện quan trọng đối với tổ chức khu vực này.
ASEAN có tầm quan trọng chiến lược đối với Việt Nam, là một trong các trụ cột của chính sách đối ngoại của Việt Nam. Các mối quan hệ cộng hưởng tạo ra môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, phục vụ cho an ninh và phát triển của nước ta những thập kỷ vừa qua.
Việt Nam là một thành viên chủ động và tích cực, đóng vai trò nòng cốt trong thúc đẩy đoàn kết, thống nhất và vai trò trung tâm của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn. Đồng thời, vai trò này, cũng như những đóng góp chiến lược và cụ thể của Việt Nam cho tổ chức, đã nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển của Việt Nam, củng cố hòa bình, ổn định khu vực.
Các thành viên ASEAN cũng như cộng đồng quốc tế kỳ vọng nhiều về tương lai phát triển và vị thế của Cộng đồng ASEAN trên trường quốc tế.
Chúng ta vừa cần có một tầm nhìn toàn cục, vừa có cách tiếp cận thực tế, phù hợp với đặc điểm của tổ chức khu vực này và thực tiễn tình hình thế giới. Hướng về một Cộng đồng, nhưng cũng không quá kỳ vọng, hiểu rõ hiện thực khách quan liên quan đến Cộng đồng ASEAN và tình hình chính trị, kinh tế phức tạp tại khu vực chúng ta và trên thế giới trong những năm sắp tới. Phải thấy rằng tổ chức ASEAN là một thực thể của đời sống quốc tế, nó và các thành viên chịu tác động của các cường lực. Cộng đồng ASEAN cần điều chỉnh mục tiêu, biện pháp và bước đi cho phù hợp với thực tiễn. Trong trung hạn, cần lấy củng cố nội khối làm trọng tâm.
Việt Nam cần tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, chủ động và tích cực như thời gian qua. Người dân nước ta cần tiếp tục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của ASEAN, phát huy hiệu quả vai trò trong ASEAN, vì lợi ích của khu vực và của chính Việt Nam./.
TS. Nguyễn Ngọc Trường
Chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quốc tế
(Độc giả có thể đọc bài viết tại: http://baochinhphu.vn/Cong-dong-ASEAN/Vi-mot-cong-dong-ASEAN-vung-manh-doan-ket/313336.vgp)

Xem thêm

An ninh Đông Bắc Á trong quan hệ Mỹ-Trung

An ninh Đông Bắc Á trong quan hệ Mỹ-Trung
Tác giả: CSSD

AN NINH ĐÔNG BẮC Á TRONG QUAN HỆ MỸ - TRUNG

Tình hình an ninh Đông Bắc Á bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là yếu tố cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc. Sự cạnh tranh này trong những năm gần đây đã đặt an ninh khu vực trước không ít các thách thức đáng lo ngại. Vậy xu hướng an ninh Đông Bắc Á thời gian tới ra sao, nhất là sau khi D.Trump lên nắm quyền Tổng thống Mỹ có sự điều chỉnh quan hệ với các nước trong khu vực, đang là vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm.

Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Bắc Á

Đối với Mỹ
Với chiến lược chuyển trọng tâm sang châu Á - Thái Bình Dương, Đông Bắc Á được xem là một trong những khu vực có vị trí chiến lược, có ý nghĩa “sống còn” đối với lợi ích của Mỹ. Khu vực này có Trung Quốc - một “chướng ngại vật” chủ yếu ngăn cản Mỹ gia tăng ảnh hưởng ở châu Á, có CHDCND Triều Tiên - “sân sau” của Trung Quốc, quốc gia đối địch luôn có những hành động khó lường. Nhưng đồng thời ở đây Mỹ còn có hai đồng minh quan trọng là Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi Mỹ đặt nhiều căn cứ quân sự và là một “gọng kìm” có thể kiềm chế Trung Quốc; có Đài Loan - “lá bài” thường được Mỹ sử dụng để gây sức ép với Trung Quốc về những vấn đề liên quan đến lợi ích của Mỹ ở khu vực. Điều Mỹ cần và buộc phải làm ở khu vực Đông Bắc Á là hóa giải “mối đe dọa từ Trung Quốc” và chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Vì vậy, Mỹ luôn tìm cách giữ quan hệ thân thiết với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nhằm lôi kéo các nước và vùng lãnh thổ này tham gia vào “chuỗi tiền đồn” kiềm chế Trung Quốc.

          Mỹ không chỉ ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp với Trung Quốc về đảo Senkaku/Điếu Ngư đã làm cho liên minh Mỹ - Nhật trở nên gắn kết chặt chẽ hơn, mà còn ủng hộ Nhật Bản trong việc giải thích lại Hiến pháp để có một lực lượng quân sự đủ mạnh và thực hiện quyền phòng vệ tập thể với quân đội Mỹ. Trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến thăm Nhật Bản (4-2014), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel nhấn mạnh: “Mỹ hoan nghênh nỗ lực của Nhật Bản nhằm đóng một vai trò chủ động hơn trong liên minh, bao gồm xem xét diễn giải lại Hiến pháp liên quan đến quyền phòng vệ tập thể”[1]. Mỹ đã triển khai hệ thống ra-đa phòng thủ tên lửa X-band thứ hai tại tỉnh miền trung Kyoto của Nhật Bản vào cuối năm 2014. Việc Mỹ thảo luận với Nhật Bản bố trí lại lực lượng quân sự Mỹ đóng tại Okinawa, xem xét lại quan hệ đồng minh đã cho thấy nước này tiếp tục quan tâm đến vấn đề an ninh khu vực trong tình hình mới.

Quan hệ liên minh Mỹ - Hàn được thúc đẩy với việc hai bên ký Hiệp định Tầm nhìn chung về liên minh năm 2009, nhấn mạnh mối quan hệ kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn giữa hai bên. Hiệp định này cũng đã tạo cơ sở cho Mỹ ký Hiệp ước thương mại tự do với Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 3-2012), mà giới phân tích cho là mang tính toàn diện nhất trên thế giới hiện nay. Mối đe dọa từ phía CHDCND Triều Tiên làm cho quan hệ Mỹ - Hàn càng thắt chặt hơn. Các cuộc diễn tập chung hàng năm giữa hai nước phô trương sức mạnh vừa răn đe CHDCND Triều Tiên nhưng cũng là răn đe Trung Quốc. Đặc biệt, Mỹ đã đạt được thỏa thuận về việc triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD)[2] tại Hàn Quốc. Mặc dù, cả Mỹ và Hàn Quốc đều khẳng định hệ thống phòng thủ tên lửa này là một biện pháp đối phó với mối đe dọa từ CHDCND Triều Tiên, song ai cũng thấy rõ, với sự bố trí này, Mỹ sẽ giành nhiều lợi thế trong tương quan lực lượng quân sự với Trung Quốc.


Mỹ cũng luôn tìm cách lôi kéo Đài Loan thông qua những hợp đồng mua bán vũ khí nhằm gia tăng sức mạnh cũng như đảm bảo hậu thuẫn về an ninh. Bằng việc tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, Mỹ đã tạo được sự phụ thuộc nhất định của Đài Loan đối với Mỹ trong nỗ lực chống lại những đe dọa an ninh từ phía đại lục. Hơn nữa, Mỹ tiến hành các biện pháp ngăn chặn không cho chính quyền Đài Loan xích lại gần Trung Quốc đại lục. Mỹ cổ vũ Đài Loan tăng cường quan hệ chặt chẽ với Nhật bản nhằm củng cố mạng lưới đồng minh của Mỹ tại khu vực Đông Bắc Á vững chắc hơn. Đồng thời, Mỹ hỗ trợ chính quyền Đài Loan trong triển khai thực hiện “chính sách hướng Nam mới”, nhằm tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á, Nam Á và Australia, giúp Đài Loan từng bước tránh phụ thuộc vào Trung Quốc đại lục. Bên cạnh đó, Mỹ tái cam kết thực hiện hiệu quả Luật Quan hệ với Đài Loan, nhằm hỗ trợ Đài Loan về vũ khí, trang bị quân sự, thông tin tình báo. Luật Ngân sách quốc phòng tài khóa 2016 của Mỹ quy định: Washington tiếp tục ủng hộ các nỗ lực của Đài Loan trong việc trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại để cân bằng với sức mạnh đang lên của Trung Quốc.
Đối với Trung Quốc.
Trong chính sách đối ngoại “châu biên” của Trung Quốc, Đông Bắc Á giữ vai trò thiết yếu đối với sự phát triển của Trung Quốc. Nhưng khu vực này tồn tại nhiều vướng mắc liên quan đến các vấn đề CHDCND Triều Tiên, Đài Loan, tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản. Mục tiêu của Trung Quốc là xây dựng một khu vực Đông Bắc Á an ninh, đảm bảo an toàn cho công cuộc phát triển của mình. Về kinh tế, Trung Quốc đã vượt lên Nhật Bản trở thành quốc gia đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ vào năm 2010. Nhiều chuyên gia kinh tế còn dự báo, với đà tăng trưởng hiện nay, Trung Quốc có khả năng vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế đứng đầu thế giới trong tương lai. Tiềm lực quân sự của Trung Quốc cũng ngày càng vượt trội với chi phí quốc phòng không ngừng tăng (130 tỷ USD năm 2014, 135 tỷ USD năm 2015, 147 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 152 tỷ USD). Bên cạnh đó, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ kinh tế, thương mại với các nước trong khu vực, tìm cách phá thế kiềm chế của Mỹ. Sáng kiến “Một vành đai, một con đường” đang được triển khai là không ngoài mục đích đó. Với thế và lực mới của mình, Trung Quốc đang nỗ lực phát huy vai trò dẫn dắt trong tất cả các vấn đề khu vực, kể cả trong quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên.


Trong quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc, tuy còn nhiều bất đồng trong vấn đề tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, vấn đề hệ thống phòng thủ tên lửa, song Trung Quốc tích cực thúc đẩy hợp tác, ký các hợp đồng thương mại và nhanh chóng vượt Mỹ để trở thành bạn hàng lớn của hai nước này. Trung Quốc cũng thúc đẩy mạnh mẽ các biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giao lưu nhân văn  để thắt chặt quan hệ với Đài Loan, từng bước hướng đến đàm phán chính trị cho vấn đề thống nhất đất nước. Tháng 7-2015 đã diễn ra “cuộc gặp lịch sử” giữa ông Tập Cận Bình, người đứng đầu Trung Quốc đại lục với Mã Anh Cửu, người đứng đầu Đài Loan. Hai bên còn duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, giao lưu ở cấp quan chức cao nhất phụ trách quan hệ hai bờ. Đối với CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc cũng có một số tính toán nhất định. Trong khi Mỹ và Nhật Bản lên án và ráo riết thi hành các biện pháp cấm vận, trừng phạt, Trung Quốc giữ thái độ bình tĩnh hơn, khuyến cáo các bên kiềm chế, không làm cho tình hình căng thẳng thêm và tìm cách đưa CHDCND Triều Tiên trở lại bàn đàm phán.


Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã áp dụng một số biện pháp an ninh cứng rắn đối với các quốc gia trong khu vực, như tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên khu vực tranh chấp ở Biển Hoa Đông với Nhật Bản (2013) nhằm khẳng định sức mạnh và răn đe sự kiềm chế của liên minh Mỹ - Nhật - Hàn đối với Trung Quốc.


An ninh Đông Bắc Á trước cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc ở khu vực
Tiềm ẩn nguy cơ chạy đua vũ trang
          Trước chiến lược trở lại châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ và sự trỗi dậy của Trung Quốc ở khu vực cùng với tình trạng bất ổn trên bán đảo Triều Tiên, tình hình an ninh Đông Bắc Á trở nên đáng lo ngại. Để đảm bảo an ninh của mình, các nước và vùng lãnh thổ ở đây đã điều chỉnh chiến lược quốc phòng và hiện đại hóa quân sự nhằm gia tăng sức mạnh quốc gia, dẫn đến nguy cơ diễn ra một cuộc chạy đua vũ trang khu vực.

 

          Trước hết, Nhật Bản đẩy nhanh quá trình trở thành một “quốc gia bình thường” để có đủ thế và lực trên tất cả các phương diện, nhất là về quốc phòng - an ninh. Nhật Bản đã nâng cấp Cục phòng vệ lên thành Bộ Quốc phòng (2007), thành lập Hội đồng An ninh quốc gia theo mô hình Mỹ (2014) và thông qua chiến lược an ninh quốc gia mới (2015). Cốt lõi của chiến lược này là dỡ bỏ lệnh cấm quyền phòng vệ tập thể, tạo điều kiện cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản triển khai các hoạt động quân sự ở nước ngoài. Nhật Bản cũng tiến hành tái bố trí lực lượng và tăng cường mua sắm các trang thiết bị quân sự cho Lực lượng Phòng vệ. Quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép triển khai vệ tinh quân sự, tăng cường vũ khí và các phương tiện hiện đại hàng đầu thế giới như tàu sân bay trực thăng lớp Izumo, tàu ngầm Soryu, tàu khu trục mang tên lửa điều khiển lớp Atago, máy bay MV-22 Osprey của Mỹ... Nhật Bản đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng để mua sắm trang thiết bị vũ khí (42 tỷ USD năm 2015, 41,8 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 46,4 tỷ USD)[3]. Ngoài ra, nước này cũng nới lỏng quy định cấm xuất khẩu vũ khí để mở đường cho các công ty trong nước tham gia các dự án xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài.

 

Trước những biến động trong khu vực, nhất là việc CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân và tên lửa đã khiến Hàn Quốc tăng cường hơn nữa sức mạnh quân sự và hợp tác với Mỹ về an ninh quốc phòng. Đặc biệt, sau vụ chìm tàu Cheonan tháng 3-2010 và đấu pháo sau đó giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên, phía Hàn Quốc đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng. Mới đây, theo hãng thông tấn Hàn Quốc Yonhap, Hàn Quốc sẽ chi lên 34,7 tỷ USD cho năm tài khóa 2017, đánh dấu 6 năm liên tiếp Seoul tăng ngân sách quốc phòng[4]. Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận với Mỹ về việc phát triển tên lửa đạn đạo tầm bắn lên tới 800km thay cho 300km như trước đây để đối phó với những đe dọa từ phía Bình Nhưỡng và sự gia tăng sức mạnh quân sự trong khu vực. Hàn Quốc cũng đang phát triển tên lửa hành trình siêu thanh có thể tấn công tàu sân bay, tàu khu trục. Nước này cũng dự định đóng thêm tàu khu trục được trang bị hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis (giai đoạn 2023 - 2027) nhằm nâng cao sức mạnh hải quân để ứng phó với nguy cơ tiềm ẩn xung quanh bán đảo Triều Tiên. Không chỉ đầu tư nâng cao sức mạnh của lực lượng hải quân, Hàn Quốc còn dự định đầu tư cho lực lượng không quân bằng kế hoạch mua máy bay chiến đấu F35, nâng cấp khả năng tác chiến cho máy bay F16 và mua thêm máy bay trực thăng, máy bay không người lái của Mỹ.

 

Đối với CHDCND Triều Tiên, sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đông Bắc Á, đặc biệt là các cuộc tập trận chung hàng năm giữa Mỹ và Hàn Quốc càng kích thích nước này quyết tâm phát triển chương trình hạt nhân và tên lửa. CHDCND Triều Tiên được cho là đã thực hiện 5 vụ thử hạt nhân vào các năm 2006, 2009, 2013, tháng 1 và 9-2016. Các nhà phân tích dự báo, CHDCND Triều Tiên đang chuẩn bị cho việc thử hạt nhân lần thứ 6. Việc CHDCND Triều Tiên thử hạt nhân, tên lửa là một trong những lý do làm cho các nước trong khu vực phải tăng cường phòng thủ bằng cách tích cực mua sắm, nâng cấp vũ khí trang bị, qua đó thúc đẩy việc gia tăng sức mạnh quân sự giữa các quốc gia khu vực Đông Bắc Á.


Đài Loan đã có những hợp đồng mua bán vũ khí với Mỹ để hiện đại hóa, nâng cao khả năng tác chiến của quân đội mà điển hình là vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan với hợp đồng trị giá 6,4 tỷ USD vào năm 2010 và 1,83 tỷ USD vào năm 2015. Bên cạnh đó, Đài Loan thực hiện chương trình nâng cấp máy bay F16, nghiên cứu phát triển hệ thống tên lửa “diệt tàu sân bay”, đồng thời dự định mua thêm máy bay, tàu chiến từ Mỹ và tự đóng mới một số tàu có trang bị tên lửa siêu thanh. Theo tin gần đây nhất, chính quyền mới của Mỹ đã sẵn sàng chuyển giao lô vũ khí hiện đại cho Đài Loan trị giá 1 tỷ USD. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết, sắp tới Đài Loan sẽ chi tới 85,8 triệu USD để tự chế tạo tàu ngầm.


Bán đảo Triều Tiên và Eo biển Đài Loan luôn trong tình trạng đe dọa bất ổn
 

Bán đảo Triều Tiên chưa bao giờ bình yên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở đây đang tồn tại hai “ngòi nổ” là vấn đề vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và quan hệ đối đầu Bắc-Nam. Vấn đề hạt nhân ở đây rất phức tạp và đã kéo dài nhiều năm, vì nó liên quan tới lợi ích của nhiều nước trong “bàn cờ” chiến lược ở Đông Bắc Á và thế giới. Những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng nhiều nhất đến tình hình bán đảo Triều Tiên là Trung Quốc và Mỹ. Đối với Trung Quốc, sự ổn định của CHDCND Triều Tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích an ninh của Trung Quốc. Một kho vũ khí hạt nhân tồn tại cạnh sườn không những sẽ đe dọa trực tiếp đến an ninh Trung Quốc, mà còn là cái cớ để Mỹ can dự vào khu vực và cùng các đồng minh Hàn Quốc, Nhật Bản triển khai các hệ thống ngăn chặn mà thực tế là phòng tuyến bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với Mỹ, sự lớn mạnh của Liên Xô trước đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện tại, sự phát triển thần kỳ một thời của Nhật Bản… luôn là những lý do để Mỹ đứng chân ở đây và luôn coi Triều Tiên là “tiền duyên chiến lược” nhằm khống chế Đông Bắc Á. Mặc dù Mỹ coi CHDCND Triều Tiên là mối đe dọa an ninh đối với Mỹ và các đồng minh trong khu vực, nhưng một bán đảo Triều Tiên thống nhất và ổn định chưa hẳn là lợi ích của Mỹ vì lúc đó quân đội Mỹ không còn lý do ở lại bán đảo Triều Tiên và Đông Bắc Á. Điều này giải thích tại sao Triều Tiên lấy lý do phải đối phó với mối đe dọa của Mỹ để phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng các cuộc tập trận chung giữa Mỹ và Hàn Quốc nhằm vào Triều Tiên vẫn diễn ra hàng năm với quy mô ngày càng lớn, càng kích động nước này quyết tâm theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân. Cứ như thế tình hình ngày càng leo thang. Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã đi vào bế tắc nhiều năm nay và ngày càng trở nên nguy hiểm, các biện pháp trừng phạt của Liên hợp quốc cũng không mang lại hiệu quả. Sự bế tắc này suy cho cùng là do tính toán lợi ích chiến lược của các nước có liên quan.


An ninh tại Eo biển Đài Loan phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ có tính ràng buộc và quy định lẫn nhau giữa Mỹ - Trung Quốc - Đài Loan. Quan điểm nhất quán của Trung Quốc coi Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc và tìm mọi cách để thống nhất Đài Loan với đại lục theo sáng kiến một nước hai chế độ. Theo “Luật chống chia cắt đất nước” của Trung Quốc thông qua năm 2005, nếu hòn đảo này có ý định độc lập, Trung Quốc sẵn sàng sử dụng biện pháp “phi hòa bình”. Trong khi đó, do vị trí địa chiến lược quan trọng của Đài Loan, một mặt Mỹ giữ lập trường “một Trung Quốc”, tức không công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập để duy trì quan hệ với Trung Quốc, mặt khác tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan để giữ Đài Loan trong vòng tay của mình và kiềm chế Trung Quốc. Do đó, mỗi khi Mỹ và Đài Loan ký hợp đồng mua bán vũ khí, an ninh tại eo biển này lại dậy sóng, quan hệ Trung-Mỹ lại căng thẳng. Trung Quốc cho rằng, việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan là hành động “can thiệp nội bộ của Trung Quốc”, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ “hai bờ”, đồng thời tuyên bố sẽ áp dụng “biện pháp cần thiết” đáp trả Mỹ. Sự bất ổn ở eo biển Đài Loan còn phụ thuộc vào thái độ của nhà cầm quyền Đài Loan đối với đại lục. Dân tiến đảng và Quốc dân đảng là hai đảng thay nhau cầm quyền ở Đài Loan lại có quan điểm khác nhau khá xa về quan hệ hai bờ. Hiện nay bà Thái Anh Văn của Dân tiến đảng đang lãnh đạo hòn đảo này có thái độ cứng rắn hơn với đại lục so với ông Mã Anh cửu của Quốc dân đảng trước đây.
Khu vực Đông Bắc Á tồn tại các tranh chấp chủ quyền biển đảo như tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku[5] giữa Trung Quốc và Nhật Bản, tranh chấp đảo Dokdo/Takeshima[6] giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, tranh chấp bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo[7] giữa Trung Quốc và Hàn Quốc... diễn ra trong nhiều thập kỷ đã trở thành điểm nóng tiềm tàng trong khu vực. Những năm gần đây, các tranh chấp này có dấu hiệu gia tăng trước sự trỗi dậy về kinh tế, quân sự cùng với chiến lược biển đầy tham vọng của Trung Quốc và sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ. Tình hình này đã đặt khu vực Đông Bắc Á trong trạng thái bên bờ của các cuộc xung đột quân sự.Tranh chấp chủ quyền biển đảo diễn ra ngày càng quyết liệt.


Tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Nhật Bản và Trung Quốc bùng phát vào năm 2012 sau sự kiện Chính phủ Nhật Bản tuyên bố mua 3 trong số 5 hòn đảo thuộc nhóm đảo trên từ sở hữu tư nhân. Phía Trung Quốc phản ứng gay gắt cả trên phương diện chính trị và ngoại giao, coi đây là cuộc “khủng hoảng Điếu Ngư”. Kể từ đó đến nay, một loạt các diễn biến căng thẳng trong tranh chấp giữa hai nước liên tục diễn ra. Phía Trung Quốc bên cạnh việc đưa ra những lời đe dọa, cảnh báo Nhật Bản, nước này thường xuyên đưa tàu thuyền dân sự, quân sự ra uy hiếp ở khu vực tranh chấp. Đáp lại, Nhật Bản cũng tuyên bố sẵn sàng sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ Senkaku nếu quần đảo này bị Trung Quốc xâm phạm.


Tranh chấp đảo Dokdo/Takeshima trở nên căng thẳng nhất sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak tới hòn đảo này tháng 8/2012. Ông Lee là tổng thống Hàn Quốc đầu tiên đặt chân đến đảo Dokdo/Takeshima từ khi tranh chấp giữa hai nước xung quanh nhóm đảo bắt đầu cách đây vài thập kỷ. Sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc, quan hệ Hàn Quốc và Nhật Bản xấu đi rõ rệt. Nhật Bản dự kiến đưa Seoul ra tòa án quốc tế với mong muốn nhằm giải quyết tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, tuy nhiên, giới chức Hàn Quốc khẳng định nước này sẽ không chấp thuận đề nghị trên.
Tranh chấp bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo giữa Trung Quốc và Hàn Quốc cũng nổi lên sau khi Trung Quốc đơn phương thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông (11-2013) bao trùm cả bãi đá này. Ngay lập tức, Hàn Quốc phản ứng quyết liệt. Đồng thời, Hàn Quốc cũng tuyên bố mở rộng ADIZ của nước này, bao gồm cả bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo. Gần đây, căng thẳng giữa Seoul và Bắc Kinh có chiều hướng gia tăng sau khi Hàn Quốc chấp thuận cho Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD trên lãnh thổ nước này. Tháng 8-2016, các máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã bay vào ADIZ chồng lấn giữa hai nước mà không thông báo trước khiến quân đội Hàn Quốc điều máy bay chiến đấu “hộ tống” các máy bay của Trung Quốc ra khỏi khu vực. Hiện Trung Quốc thường xuyên điều máy bay giám sát xung quanh bãi đá ngầm tranh chấp, còn Hàn Quốc cũng đã triển khai tàu lớn có khả năng hỗ trợ trực thăng gần khu vực này, với tần suất bay giám sát trên không 3-4 lần/tuần.


Có thể thấy, những năm gần đây, các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực Đông Bắc Á không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự. Bên cạnh sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Mỹ càng tăng cường can dự đối với khu vực thông qua thúc đẩy hợp tác và đảm bảo ô an ninh cho các đồng minh, một mặt vì lợi ích chiến lược của Mỹ, mặt khác, với các đồng minh có thể coi đây là sự hậu thuẫn để đối phó với Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo. Vì thế, an ninh Đông Bắc Á vốn luôn trong tình trạng bất ổn càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.


Xu hướng an ninh Đông Bắc Á thời gian tới


Thời gian gần đây, thế giới diễn biến càng khó lường. Đặc biệt việc D.Trump đắc cử Tổng thống Mỹ đã làm đảo lộn tất cả những nguyên tắc vốn định hình nền chính trị Mỹ và quan hệ giữa Mỹ và thế giới. Đến nay tất cả vẫn chưa định hình, mọi dự báo lúc này không khác gì giải một bài toán còn thiếu quá nhiều dữ kiện. Đã có những lúc nhiều chuyên gia cho rằng, hai cường quốc thế giới Mỹ và Trung Quốc có nguy cơ rơi vào một cuộc đối đầu nguy hiểm, theo đó tình hình an ninh Đông Bắc Á tiềm ẩn nguy cơ bùng phát xung đột quân sự. Nhưng ngay sau đó lại có những thay đổi đầy kịch tính.


Về vấn đề Đài Loan, khi mới đắc cử, Tổng thống D.Trump cho rằng, cần phải xem xét lại lập trường “một Trung Quốc”, ông điện đàm với lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn, khiến Trung Quốc nổi giận. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã trao công hàm phản đối vì cho rằng Mỹ đã không tôn trọng nguyên tắc “một Trung Quốc” mà hai bên đã thỏa thuận mấy chục năm nay, đồng thời đưa máy bay ném bom, tàu sân bay Liêu Ninh hoạt động quanh Đài Loan. Không lâu sau, Tổng thống D.Trump lại gửi thư chúc Tết và điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình và nhấn mạnh tôn trọng chính sách “một Trung Quốc”, làm dịu bớt những căng thẳng trong quan hệ hai nước về vấn đề Đài Loan. Tuy nhiên, mới đây báo chí lại đưa tin, chính quyền của Tổng thống Mỹ D.Trump đang chuẩn bị chuyển giao lô vũ khí hiện đại, trị giá 1 tỷ USD cho Đài Loan, có thể làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ hai bờ.

 

Việc CHDCND Triều Tiên liên tiếp phóng thử tên lửa cũng đẩy an ninh khu vực vào “vòng tuần hoàn xấu”. Đầu tiên, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ký Hiệp định chia sẻ tin tức tình báo quân sự (11-2016). Sau khi ký kết hiệp định này, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể chia sẻ tin tức tình báo quân sự mà không phải thông qua Mỹ. Tiếp đó, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản tăng cường sự hiện diện quân sự, mở rộng quy mô diễn tập quân sự. Mỹ cũng đổ trách nhiệm cho Trung Quốc đã không tích cực trong việc kiềm chế Bình Nhưỡng phát triển chương trình hạt nhân. Đáng chú ý, sau khi CHDCND Triều Tiên phóng thử 4 tên lửa ngày 6-3-2017, Mỹ lập tức triển khai 2 bệ phóng của hệ thống THAAD đến căn cứ không quân Osan, Hàn Quốc. Mặc dù trong kế hoạch, THAAD không được đưa đến Nhật Bản nhưng nhiều phân tích cho rằng, việc CHDCND Triều Tiên liên tục phóng tên lửa có thể khiến Tokyo cân nhắc một cách nghiêm túc hơn việc sử dụng hệ thống này. Trước khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ đầu tiên kể từ sau khi D.Trump nhậm chức Tổng thống, mà ở đó dự kiến vấn đề Triều Tiên sẽ là một chủ đề chính, Triều Tiên lại tiếp tục thử tiên lửa như là một hành động thách thức hai cường quốc có ảnh hưởng nhất đối với khu vực này. Tình hình căng thẳng ở Đông Bắc Á lại bị đẩy lên một nấc thang mới. Cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ gần như không đạt được tiến bộ nào về vấn đề chương trình hạt nhân của Triều Tiên ngoài việc hai bên đều cho rằng nó đã đạt tới “giai đoạn nghiêm trọng”. Thêm vào đó, vào đúng thời điểm diễn ra cuộc gặp nhạy cảm này, Tổng thống D.Trump ra lệnh phóng gần 60 quả tên lửa hành trình Tomahawk vào sân bay quân sự Syria, như là một thông điệp răn đe rằng, nếu Trung Quốc không hợp tác, Mỹ sẵn sàng hành động đơn phương và không loại trừ giải pháp quân sự đối với Triều Tiên. Tuy nhiên nếu tình huống này xẩy ra, CHDCND Triều Tiên không cam chịu cúi đầu, có thể Seoul và Nhật Bản sẽ là mục tiêu tấn công đầu tiên của Triều Tiên. Hơn nữa Trung Quốc không thể khoanh tay đứng nhìn, tai họa sẽ lan ra toàn bộ khu vực Đông Bắc Á, hậu quả khó lường. Khả năng này khó đoán định bởi quyền quyết định nằm trong tay Tổng thống D.Trump, một nhân vật có tính khí thất thường, khó đoán định.

 

Trên thực tế, Trung Quốc đã có những nhượng bộ nhất định như việc cấm nhập khẩu than đá của CHDCND Triều Tiên cho tới hết năm 2017. Hành động này của Trung Quốc mang ý nghĩa gửi đi thông điệp cảnh báo mạnh mẽ tới CHDCND Triều Tiên, bởi than đá là mặt hàng xuất khẩu chính và chiếm tới 90% hoạt động thương mại của Bình Nhưỡng. Đây còn là thông điệp gửi tới Tổng thống D.Trump bởi nhà lãnh đạo Mỹ nhiều lần chỉ trích Trung Quốc chưa tích cực kiềm chế tham vọng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Nhưng nếu Mỹ đòi hỏi nhiều hơn ở Trung Quốc là điều không thực tế, bởi một mặt Trung Quốc không thể làm cho chế độ CHDCND Triều Tiên lâm vào khủng hoảng, mặt khác trên thực tế khả năng kiềm chế của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng là rất có hạn.

 

Liên quan đến bán đảo Triều Tiên, tình hình căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đang tiếp tục leo thang do việc Mỹ và Hàn Quốc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Vấn đề này cũng là một ẩn số khó dự báo bởi tình hình nội bộ Hàn Quốc đang thời điểm phức tạp, không loại trừ khả năng Tổng thống đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 5 tới có lập trường khác biệt về vấn đề này. Trong trường hợp đó, tình hình có thể thay đổi hoàn toàn.

 

Tình hình biển Hoa Đông cũng tiếp tục được coi là điểm nóng trong khu vực. Trong chuyến thăm Nhật Bản tháng 2-2017, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis khẳng định, Chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ giữ nguyên cam kết bảo vệ Nhật Bản với tư cách một đối tác theo Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, trong đó bao gồm cả quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Điều 5 của Hiệp ước nêu rõ, lực lượng của Mỹ và Nhật Bản sẽ phối hợp đáp trả bất cứ cuộc tấn công nào nhằm vào lãnh thổ do Nhật Bản kiểm soát. Giáo sư Viện quan hệ quốc tế thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc Zhou Yongsheng nhận định: “Tuyên bố đảo Điếu Ngư cũng thuộc diện theo Điều 5 (Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật) là dấu hiệu cho thấy chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ tiếp tục chiến lược xoay trục sang châu Á có từ thời chính quyền tiền nhiệm, và đó là tin xấu cho Bắc Kinh. Điều này có nghĩa là chính quyền Tổng thống D.Trump sẽ không chỉ thừa hưởng chiến lược xoay trục sang châu Á mà thậm chí còn đưa nó lên một tầm mới”[8].

 

Hiện quan hệ Mỹ - Trung xung quanh vấn đề Đông Bắc Á đang tồn tại nhiều mâu thuẫn và hết sức căng thẳng. Tuy nhiên có thể thấy rõ, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai cường quốc này vẫn chiếm ưu thế. Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc, chiếm gần 20% xuất khẩu của Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc chiếm 9% hàng hóa xuất khẩu của Mỹ. Trên lĩnh vực tài chính, hai nước liên quan mật thiết với nhau. Dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có khoảng hơn 3.000 tỷ USD và nước này vẫn tiếp tục đầu tư vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Nếu mối quan hệ giữa hai siêu cường này đổ vỡ, Mỹ sẽ khó tìm nguồn tài trợ cho khoản nợ trên thị trường tài chính nước ngoài. Trung Quốc là chủ nợ số một của Mỹ, giữ gần 7% nợ công của Mỹ, khoảng 1.250 tỷ USD. Ngay cả tập đoàn kinh tế của Tổng thống D.Trump và của con gái ông cũng có quan hệ làm ăn mật thiết với Trung Quốc. Vì thế, người ta cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tìm cách kiềm chế, không để quan hệ hai nước rơi vào tình trạng khủng hoảng và nhiều khả năng an ninh Đông Bắc Á vẫn tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát.
Tóm lại, có thể thấy rằng, tình hình Đông Bắc Á thời gian tới tiếp tục có nhiều biến động, thỏa hiệp - cạnh tranh đan xen nhau và chịu sự chi phối sâu sắc của quan hệ Mỹ - Trung. Mặc dù chính sách đối ngoại mới của Mỹ chưa hình thành rõ nét, song xu hướng đẩy mạnh can dự vào châu Á - Thái Bình Dương nói chung, Đông Bắc Á nói riêng vẫn là xu hướng chính. Đa số các nhà phân tích cho rằng, cụm từ “tái cân bằng” không còn được các quan chức dưới chính quyền D.Trump sử dụng, song điều đó cũng sẽ không thay đổi những lợi ích quốc gia cơ bản của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương như việc duy trì các đồng minh, thương mại và đầu tư, tự do hàng hải và hàng không. Do đó, tình trạng gia tăng sức mạnh quân sự, tranh chấp chủ quyền biển đảo và cạnh tranh tại các điểm nóng ở Đông Bắc Á sẽ tiếp tục diễn ra gay gắt, nhưng ít có khả năng bùng phát thành xung đột vũ trang giữa các bên./. 

 

[1] An ninh Đông Bắc Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ, TS Hoàng Minh Hằng, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, NXB khoa học xã hội 2015

[2] THAAD là hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung trong giai đoạn cuối của chuyến bay. Hệ thống radar mà THAAD sử dụng thuộc loại radar quét mạng pha điện tử chủ động (AESA) có khả năng nhận dạng mục tiêu rất cao. Radar có tầm trinh sát khoảng 1.000 km, có thể mở rộng lên đến 4.000 km.

[3] Nhật Bản tăng chi tiêu  quốc phòng kỷ lục trong năm 2017, Báo Quân đội Nhân dân, ngày 2-12-2016.

[4] Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11-3-2017.

[5] Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku là nhóm đảo nhỏ nằm cách đảo chính của tỉnh Okinawa của Nhật Bản khoảng 40km về phía tây và hiện do Nhật Bản kiểm soát, nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và thường xuyên đưa tàu hoặc máy bay đến vùng biển xung quanh quần đảo này.

[6] Đảo Dokdo/Takeshima nằm ở vùng biển phía đông bán đảo Triều Tiên, có diện tích khoảng 0,18 km vuông. Hàn Quốc và Nhật Bản đều tuyên bố chủ quyền. Hiện Hàn Quốc kiểm soát thực tế hòn đảo này.

[7]  Bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo nằm cách đảo Jeru của Hàn Quốc khoảng 150km về phía Tây Nam do Hàn Quốc quản lý, Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền với đảo đá này.

[8] Mỹ sẽ đứng về phía Nhật trong tranh chấp ở Hoa Đông, www.dantri.com.vn, ngày 4-2-2017. 


 

 

Cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Bắc Á

Đối với Mỹ
Với chiến lược chuyển trọng tâm sang châu Á - Thái Bình Dương, Đông Bắc Á được xem là một trong những khu vực có vị trí chiến lược, có ý nghĩa “sống còn” đối với lợi ích của Mỹ. Khu vực này có Trung Quốc - một “chướng ngại vật” chủ yếu ngăn cản Mỹ gia tăng ảnh hưởng ở châu Á, có CHDCND Triều Tiên - “sân sau” của Trung Quốc, quốc gia đối địch luôn có những hành động khó lường. Nhưng đồng thời ở đây Mỹ còn có hai đồng minh quan trọng là Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi Mỹ đặt nhiều căn cứ quân sự và là một “gọng kìm” có thể kiềm chế Trung Quốc; có Đài Loan - “lá bài” thường được Mỹ sử dụng để gây sức ép với Trung Quốc về những vấn đề liên quan đến lợi ích của Mỹ ở khu vực. Điều Mỹ cần và buộc phải làm ở khu vực Đông Bắc Á là hóa giải “mối đe dọa từ Trung Quốc” và chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Vì vậy, Mỹ luôn tìm cách giữ quan hệ thân thiết với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nhằm lôi kéo các nước và vùng lãnh thổ này tham gia vào “chuỗi tiền đồn” kiềm chế Trung Quốc.

          Mỹ không chỉ ủng hộ Nhật Bản trong tranh chấp với Trung Quốc về đảo Senkaku/Điếu Ngư đã làm cho liên minh Mỹ - Nhật trở nên gắn kết chặt chẽ hơn, mà còn ủng hộ Nhật Bản trong việc giải thích lại Hiến pháp để có một lực lượng quân sự đủ mạnh và thực hiện quyền phòng vệ tập thể với quân đội Mỹ. Trả lời phỏng vấn báo chí trước chuyến thăm Nhật Bản (4-2014), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel nhấn mạnh: “Mỹ hoan nghênh nỗ lực của Nhật Bản nhằm đóng một vai trò chủ động hơn trong liên minh, bao gồm xem xét diễn giải lại Hiến pháp liên quan đến quyền phòng vệ tập thể”[1]. Mỹ đã triển khai hệ thống ra-đa phòng thủ tên lửa X-band thứ hai tại tỉnh miền trung Kyoto của Nhật Bản vào cuối năm 2014. Việc Mỹ thảo luận với Nhật Bản bố trí lại lực lượng quân sự Mỹ đóng tại Okinawa, xem xét lại quan hệ đồng minh đã cho thấy nước này tiếp tục quan tâm đến vấn đề an ninh khu vực trong tình hình mới.

Quan hệ liên minh Mỹ - Hàn được thúc đẩy với việc hai bên ký Hiệp định Tầm nhìn chung về liên minh năm 2009, nhấn mạnh mối quan hệ kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn giữa hai bên. Hiệp định này cũng đã tạo cơ sở cho Mỹ ký Hiệp ước thương mại tự do với Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 3-2012), mà giới phân tích cho là mang tính toàn diện nhất trên thế giới hiện nay. Mối đe dọa từ phía CHDCND Triều Tiên làm cho quan hệ Mỹ - Hàn càng thắt chặt hơn. Các cuộc diễn tập chung hàng năm giữa hai nước phô trương sức mạnh vừa răn đe CHDCND Triều Tiên nhưng cũng là răn đe Trung Quốc. Đặc biệt, Mỹ đã đạt được thỏa thuận về việc triển khai hệ thống đánh chặn tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD)[2] tại Hàn Quốc. Mặc dù, cả Mỹ và Hàn Quốc đều khẳng định hệ thống phòng thủ tên lửa này là một biện pháp đối phó với mối đe dọa từ CHDCND Triều Tiên, song ai cũng thấy rõ, với sự bố trí này, Mỹ sẽ giành nhiều lợi thế trong tương quan lực lượng quân sự với Trung Quốc.


Mỹ cũng luôn tìm cách lôi kéo Đài Loan thông qua những hợp đồng mua bán vũ khí nhằm gia tăng sức mạnh cũng như đảm bảo hậu thuẫn về an ninh. Bằng việc tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, Mỹ đã tạo được sự phụ thuộc nhất định của Đài Loan đối với Mỹ trong nỗ lực chống lại những đe dọa an ninh từ phía đại lục. Hơn nữa, Mỹ tiến hành các biện pháp ngăn chặn không cho chính quyền Đài Loan xích lại gần Trung Quốc đại lục. Mỹ cổ vũ Đài Loan tăng cường quan hệ chặt chẽ với Nhật bản nhằm củng cố mạng lưới đồng minh của Mỹ tại khu vực Đông Bắc Á vững chắc hơn. Đồng thời, Mỹ hỗ trợ chính quyền Đài Loan trong triển khai thực hiện “chính sách hướng Nam mới”, nhằm tăng cường quan hệ với các nước Đông Nam Á, Nam Á và Australia, giúp Đài Loan từng bước tránh phụ thuộc vào Trung Quốc đại lục. Bên cạnh đó, Mỹ tái cam kết thực hiện hiệu quả Luật Quan hệ với Đài Loan, nhằm hỗ trợ Đài Loan về vũ khí, trang bị quân sự, thông tin tình báo. Luật Ngân sách quốc phòng tài khóa 2016 của Mỹ quy định: Washington tiếp tục ủng hộ các nỗ lực của Đài Loan trong việc trang bị vũ khí, phương tiện hiện đại để cân bằng với sức mạnh đang lên của Trung Quốc.
Đối với Trung Quốc.
Trong chính sách đối ngoại “châu biên” của Trung Quốc, Đông Bắc Á giữ vai trò thiết yếu đối với sự phát triển của Trung Quốc. Nhưng khu vực này tồn tại nhiều vướng mắc liên quan đến các vấn đề CHDCND Triều Tiên, Đài Loan, tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản. Mục tiêu của Trung Quốc là xây dựng một khu vực Đông Bắc Á an ninh, đảm bảo an toàn cho công cuộc phát triển của mình. Về kinh tế, Trung Quốc đã vượt lên Nhật Bản trở thành quốc gia đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ vào năm 2010. Nhiều chuyên gia kinh tế còn dự báo, với đà tăng trưởng hiện nay, Trung Quốc có khả năng vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế đứng đầu thế giới trong tương lai. Tiềm lực quân sự của Trung Quốc cũng ngày càng vượt trội với chi phí quốc phòng không ngừng tăng (130 tỷ USD năm 2014, 135 tỷ USD năm 2015, 147 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 152 tỷ USD). Bên cạnh đó, Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ kinh tế, thương mại với các nước trong khu vực, tìm cách phá thế kiềm chế của Mỹ. Sáng kiến “Một vành đai, một con đường” đang được triển khai là không ngoài mục đích đó. Với thế và lực mới của mình, Trung Quốc đang nỗ lực phát huy vai trò dẫn dắt trong tất cả các vấn đề khu vực, kể cả trong quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên.


Trong quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc, tuy còn nhiều bất đồng trong vấn đề tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, vấn đề hệ thống phòng thủ tên lửa, song Trung Quốc tích cực thúc đẩy hợp tác, ký các hợp đồng thương mại và nhanh chóng vượt Mỹ để trở thành bạn hàng lớn của hai nước này. Trung Quốc cũng thúc đẩy mạnh mẽ các biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giao lưu nhân văn  để thắt chặt quan hệ với Đài Loan, từng bước hướng đến đàm phán chính trị cho vấn đề thống nhất đất nước. Tháng 7-2015 đã diễn ra “cuộc gặp lịch sử” giữa ông Tập Cận Bình, người đứng đầu Trung Quốc đại lục với Mã Anh Cửu, người đứng đầu Đài Loan. Hai bên còn duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, giao lưu ở cấp quan chức cao nhất phụ trách quan hệ hai bờ. Đối với CHDCND Triều Tiên, Trung Quốc cũng có một số tính toán nhất định. Trong khi Mỹ và Nhật Bản lên án và ráo riết thi hành các biện pháp cấm vận, trừng phạt, Trung Quốc giữ thái độ bình tĩnh hơn, khuyến cáo các bên kiềm chế, không làm cho tình hình căng thẳng thêm và tìm cách đưa CHDCND Triều Tiên trở lại bàn đàm phán.


Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã áp dụng một số biện pháp an ninh cứng rắn đối với các quốc gia trong khu vực, như tuyên bố Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên khu vực tranh chấp ở Biển Hoa Đông với Nhật Bản (2013) nhằm khẳng định sức mạnh và răn đe sự kiềm chế của liên minh Mỹ - Nhật - Hàn đối với Trung Quốc.


An ninh Đông Bắc Á trước cuộc cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc ở khu vực
Tiềm ẩn nguy cơ chạy đua vũ trang
          Trước chiến lược trở lại châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ và sự trỗi dậy của Trung Quốc ở khu vực cùng với tình trạng bất ổn trên bán đảo Triều Tiên, tình hình an ninh Đông Bắc Á trở nên đáng lo ngại. Để đảm bảo an ninh của mình, các nước và vùng lãnh thổ ở đây đã điều chỉnh chiến lược quốc phòng và hiện đại hóa quân sự nhằm gia tăng sức mạnh quốc gia, dẫn đến nguy cơ diễn ra một cuộc chạy đua vũ trang khu vực.

 

          Trước hết, Nhật Bản đẩy nhanh quá trình trở thành một “quốc gia bình thường” để có đủ thế và lực trên tất cả các phương diện, nhất là về quốc phòng - an ninh. Nhật Bản đã nâng cấp Cục phòng vệ lên thành Bộ Quốc phòng (2007), thành lập Hội đồng An ninh quốc gia theo mô hình Mỹ (2014) và thông qua chiến lược an ninh quốc gia mới (2015). Cốt lõi của chiến lược này là dỡ bỏ lệnh cấm quyền phòng vệ tập thể, tạo điều kiện cho Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản triển khai các hoạt động quân sự ở nước ngoài. Nhật Bản cũng tiến hành tái bố trí lực lượng và tăng cường mua sắm các trang thiết bị quân sự cho Lực lượng Phòng vệ. Quốc hội Nhật Bản thông qua luật cho phép triển khai vệ tinh quân sự, tăng cường vũ khí và các phương tiện hiện đại hàng đầu thế giới như tàu sân bay trực thăng lớp Izumo, tàu ngầm Soryu, tàu khu trục mang tên lửa điều khiển lớp Atago, máy bay MV-22 Osprey của Mỹ... Nhật Bản đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng để mua sắm trang thiết bị vũ khí (42 tỷ USD năm 2015, 41,8 tỷ USD năm 2016, dự kiến năm 2017 tăng lên 46,4 tỷ USD)[3]. Ngoài ra, nước này cũng nới lỏng quy định cấm xuất khẩu vũ khí để mở đường cho các công ty trong nước tham gia các dự án xuất khẩu vũ khí ra nước ngoài.

 

Trước những biến động trong khu vực, nhất là việc CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân và tên lửa đã khiến Hàn Quốc tăng cường hơn nữa sức mạnh quân sự và hợp tác với Mỹ về an ninh quốc phòng. Đặc biệt, sau vụ chìm tàu Cheonan tháng 3-2010 và đấu pháo sau đó giữa Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên, phía Hàn Quốc đã liên tục tăng ngân sách quốc phòng. Mới đây, theo hãng thông tấn Hàn Quốc Yonhap, Hàn Quốc sẽ chi lên 34,7 tỷ USD cho năm tài khóa 2017, đánh dấu 6 năm liên tiếp Seoul tăng ngân sách quốc phòng[4]. Hàn Quốc đã đạt được thỏa thuận với Mỹ về việc phát triển tên lửa đạn đạo tầm bắn lên tới 800km thay cho 300km như trước đây để đối phó với những đe dọa từ phía Bình Nhưỡng và sự gia tăng sức mạnh quân sự trong khu vực. Hàn Quốc cũng đang phát triển tên lửa hành trình siêu thanh có thể tấn công tàu sân bay, tàu khu trục. Nước này cũng dự định đóng thêm tàu khu trục được trang bị hệ thống phòng thủ tên lửa Aegis (giai đoạn 2023 - 2027) nhằm nâng cao sức mạnh hải quân để ứng phó với nguy cơ tiềm ẩn xung quanh bán đảo Triều Tiên. Không chỉ đầu tư nâng cao sức mạnh của lực lượng hải quân, Hàn Quốc còn dự định đầu tư cho lực lượng không quân bằng kế hoạch mua máy bay chiến đấu F35, nâng cấp khả năng tác chiến cho máy bay F16 và mua thêm máy bay trực thăng, máy bay không người lái của Mỹ.

 

Đối với CHDCND Triều Tiên, sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đông Bắc Á, đặc biệt là các cuộc tập trận chung hàng năm giữa Mỹ và Hàn Quốc càng kích thích nước này quyết tâm phát triển chương trình hạt nhân và tên lửa. CHDCND Triều Tiên được cho là đã thực hiện 5 vụ thử hạt nhân vào các năm 2006, 2009, 2013, tháng 1 và 9-2016. Các nhà phân tích dự báo, CHDCND Triều Tiên đang chuẩn bị cho việc thử hạt nhân lần thứ 6. Việc CHDCND Triều Tiên thử hạt nhân, tên lửa là một trong những lý do làm cho các nước trong khu vực phải tăng cường phòng thủ bằng cách tích cực mua sắm, nâng cấp vũ khí trang bị, qua đó thúc đẩy việc gia tăng sức mạnh quân sự giữa các quốc gia khu vực Đông Bắc Á.


Đài Loan đã có những hợp đồng mua bán vũ khí với Mỹ để hiện đại hóa, nâng cao khả năng tác chiến của quân đội mà điển hình là vụ Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan với hợp đồng trị giá 6,4 tỷ USD vào năm 2010 và 1,83 tỷ USD vào năm 2015. Bên cạnh đó, Đài Loan thực hiện chương trình nâng cấp máy bay F16, nghiên cứu phát triển hệ thống tên lửa “diệt tàu sân bay”, đồng thời dự định mua thêm máy bay, tàu chiến từ Mỹ và tự đóng mới một số tàu có trang bị tên lửa siêu thanh. Theo tin gần đây nhất, chính quyền mới của Mỹ đã sẵn sàng chuyển giao lô vũ khí hiện đại cho Đài Loan trị giá 1 tỷ USD. Ngoài ra, Bộ Quốc phòng Đài Loan cho biết, sắp tới Đài Loan sẽ chi tới 85,8 triệu USD để tự chế tạo tàu ngầm.


Bán đảo Triều Tiên và Eo biển Đài Loan luôn trong tình trạng đe dọa bất ổn
 

Bán đảo Triều Tiên chưa bao giờ bình yên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở đây đang tồn tại hai “ngòi nổ” là vấn đề vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên và quan hệ đối đầu Bắc-Nam. Vấn đề hạt nhân ở đây rất phức tạp và đã kéo dài nhiều năm, vì nó liên quan tới lợi ích của nhiều nước trong “bàn cờ” chiến lược ở Đông Bắc Á và thế giới. Những nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng nhiều nhất đến tình hình bán đảo Triều Tiên là Trung Quốc và Mỹ. Đối với Trung Quốc, sự ổn định của CHDCND Triều Tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích an ninh của Trung Quốc. Một kho vũ khí hạt nhân tồn tại cạnh sườn không những sẽ đe dọa trực tiếp đến an ninh Trung Quốc, mà còn là cái cớ để Mỹ can dự vào khu vực và cùng các đồng minh Hàn Quốc, Nhật Bản triển khai các hệ thống ngăn chặn mà thực tế là phòng tuyến bao vây, kiềm chế Trung Quốc. Với Mỹ, sự lớn mạnh của Liên Xô trước đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện tại, sự phát triển thần kỳ một thời của Nhật Bản… luôn là những lý do để Mỹ đứng chân ở đây và luôn coi Triều Tiên là “tiền duyên chiến lược” nhằm khống chế Đông Bắc Á. Mặc dù Mỹ coi CHDCND Triều Tiên là mối đe dọa an ninh đối với Mỹ và các đồng minh trong khu vực, nhưng một bán đảo Triều Tiên thống nhất và ổn định chưa hẳn là lợi ích của Mỹ vì lúc đó quân đội Mỹ không còn lý do ở lại bán đảo Triều Tiên và Đông Bắc Á. Điều này giải thích tại sao Triều Tiên lấy lý do phải đối phó với mối đe dọa của Mỹ để phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng các cuộc tập trận chung giữa Mỹ và Hàn Quốc nhằm vào Triều Tiên vẫn diễn ra hàng năm với quy mô ngày càng lớn, càng kích động nước này quyết tâm theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân. Cứ như thế tình hình ngày càng leo thang. Vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đã đi vào bế tắc nhiều năm nay và ngày càng trở nên nguy hiểm, các biện pháp trừng phạt của Liên hợp quốc cũng không mang lại hiệu quả. Sự bế tắc này suy cho cùng là do tính toán lợi ích chiến lược của các nước có liên quan.


An ninh tại Eo biển Đài Loan phụ thuộc nhiều vào mối quan hệ có tính ràng buộc và quy định lẫn nhau giữa Mỹ - Trung Quốc - Đài Loan. Quan điểm nhất quán của Trung Quốc coi Đài Loan là một phần lãnh thổ không thể tách rời của Trung Quốc và tìm mọi cách để thống nhất Đài Loan với đại lục theo sáng kiến một nước hai chế độ. Theo “Luật chống chia cắt đất nước” của Trung Quốc thông qua năm 2005, nếu hòn đảo này có ý định độc lập, Trung Quốc sẵn sàng sử dụng biện pháp “phi hòa bình”. Trong khi đó, do vị trí địa chiến lược quan trọng của Đài Loan, một mặt Mỹ giữ lập trường “một Trung Quốc”, tức không công nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập để duy trì quan hệ với Trung Quốc, mặt khác tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan để giữ Đài Loan trong vòng tay của mình và kiềm chế Trung Quốc. Do đó, mỗi khi Mỹ và Đài Loan ký hợp đồng mua bán vũ khí, an ninh tại eo biển này lại dậy sóng, quan hệ Trung-Mỹ lại căng thẳng. Trung Quốc cho rằng, việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan là hành động “can thiệp nội bộ của Trung Quốc”, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quan hệ “hai bờ”, đồng thời tuyên bố sẽ áp dụng “biện pháp cần thiết” đáp trả Mỹ. Sự bất ổn ở eo biển Đài Loan còn phụ thuộc vào thái độ của nhà cầm quyền Đài Loan đối với đại lục. Dân tiến đảng và Quốc dân đảng là hai đảng thay nhau cầm quyền ở Đài Loan lại có quan điểm khác nhau khá xa về quan hệ hai bờ. Hiện nay bà Thái Anh Văn của Dân tiến đảng đang lãnh đạo hòn đảo này có thái độ cứng rắn hơn với đại lục so với ông Mã Anh cửu của Quốc dân đảng trước đây.
Khu vực Đông Bắc Á tồn tại các tranh chấp chủ quyền biển đảo như tranh chấp quần đảo Điếu Ngư/Senkaku[5] giữa Trung Quốc và Nhật Bản, tranh chấp đảo Dokdo/Takeshima[6] giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, tranh chấp bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo[7] giữa Trung Quốc và Hàn Quốc... diễn ra trong nhiều thập kỷ đã trở thành điểm nóng tiềm tàng trong khu vực. Những năm gần đây, các tranh chấp này có dấu hiệu gia tăng trước sự trỗi dậy về kinh tế, quân sự cùng với chiến lược biển đầy tham vọng của Trung Quốc và sự can dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ. Tình hình này đã đặt khu vực Đông Bắc Á trong trạng thái bên bờ của các cuộc xung đột quân sự.Tranh chấp chủ quyền biển đảo diễn ra ngày càng quyết liệt.


Tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư giữa Nhật Bản và Trung Quốc bùng phát vào năm 2012 sau sự kiện Chính phủ Nhật Bản tuyên bố mua 3 trong số 5 hòn đảo thuộc nhóm đảo trên từ sở hữu tư nhân. Phía Trung Quốc phản ứng gay gắt cả trên phương diện chính trị và ngoại giao, coi đây là cuộc “khủng hoảng Điếu Ngư”. Kể từ đó đến nay, một loạt các diễn biến căng thẳng trong tranh chấp giữa hai nước liên tục diễn ra. Phía Trung Quốc bên cạnh việc đưa ra những lời đe dọa, cảnh báo Nhật Bản, nước này thường xuyên đưa tàu thuyền dân sự, quân sự ra uy hiếp ở khu vực tranh chấp. Đáp lại, Nhật Bản cũng tuyên bố sẵn sàng sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ Senkaku nếu quần đảo này bị Trung Quốc xâm phạm.


Tranh chấp đảo Dokdo/Takeshima trở nên căng thẳng nhất sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak tới hòn đảo này tháng 8/2012. Ông Lee là tổng thống Hàn Quốc đầu tiên đặt chân đến đảo Dokdo/Takeshima từ khi tranh chấp giữa hai nước xung quanh nhóm đảo bắt đầu cách đây vài thập kỷ. Sau chuyến thăm của Tổng thống Hàn Quốc, quan hệ Hàn Quốc và Nhật Bản xấu đi rõ rệt. Nhật Bản dự kiến đưa Seoul ra tòa án quốc tế với mong muốn nhằm giải quyết tranh chấp dựa trên luật pháp quốc tế, tuy nhiên, giới chức Hàn Quốc khẳng định nước này sẽ không chấp thuận đề nghị trên.
Tranh chấp bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo giữa Trung Quốc và Hàn Quốc cũng nổi lên sau khi Trung Quốc đơn phương thiết lập ADIZ trên biển Hoa Đông (11-2013) bao trùm cả bãi đá này. Ngay lập tức, Hàn Quốc phản ứng quyết liệt. Đồng thời, Hàn Quốc cũng tuyên bố mở rộng ADIZ của nước này, bao gồm cả bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo. Gần đây, căng thẳng giữa Seoul và Bắc Kinh có chiều hướng gia tăng sau khi Hàn Quốc chấp thuận cho Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD trên lãnh thổ nước này. Tháng 8-2016, các máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã bay vào ADIZ chồng lấn giữa hai nước mà không thông báo trước khiến quân đội Hàn Quốc điều máy bay chiến đấu “hộ tống” các máy bay của Trung Quốc ra khỏi khu vực. Hiện Trung Quốc thường xuyên điều máy bay giám sát xung quanh bãi đá ngầm tranh chấp, còn Hàn Quốc cũng đã triển khai tàu lớn có khả năng hỗ trợ trực thăng gần khu vực này, với tần suất bay giám sát trên không 3-4 lần/tuần.


Có thể thấy, những năm gần đây, các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực Đông Bắc Á không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự. Bên cạnh sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Mỹ càng tăng cường can dự đối với khu vực thông qua thúc đẩy hợp tác và đảm bảo ô an ninh cho các đồng minh, một mặt vì lợi ích chiến lược của Mỹ, mặt khác, với các đồng minh có thể coi đây là sự hậu thuẫn để đối phó với Trung Quốc trong giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo. Vì thế, an ninh Đông Bắc Á vốn luôn trong tình trạng bất ổn càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường.


Xu hướng an ninh Đông Bắc Á thời gian tới


Thời gian gần đây, thế giới diễn biến càng khó lường. Đặc biệt việc D.Trump đắc cử Tổng thống Mỹ đã làm đảo lộn tất cả những nguyên tắc vốn định hình nền chính trị Mỹ và quan hệ giữa Mỹ và thế giới. Đến nay tất cả vẫn chưa định hình, mọi dự báo lúc này không khác gì giải một bài toán còn thiếu quá nhiều dữ kiện. Đã có những lúc nhiều chuyên gia cho rằng, hai cường quốc thế giới Mỹ và Trung Quốc có nguy cơ rơi vào một cuộc đối đầu nguy hiểm, theo đó tình hình an ninh Đông Bắc Á tiềm ẩn nguy cơ bùng phát xung đột quân sự. Nhưng ngay sau đó lại có những thay đổi đầy kịch tính.


Về vấn đề Đài Loan, khi mới đắc cử, Tổng thống D.Trump cho rằng, cần phải xem xét lại lập trường “một Trung Quốc”, ông điện đàm với lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn, khiến Trung Quốc nổi giận. Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã trao công hàm phản đối vì cho rằng Mỹ đã không tôn trọng nguyên tắc “một Trung Quốc” mà hai bên đã thỏa thuận mấy chục năm nay, đồng thời đưa máy bay ném bom, tàu sân bay Liêu Ninh hoạt động quanh Đài Loan. Không lâu sau, Tổng thống D.Trump lại gửi thư chúc Tết và điện đàm với Chủ tịch Tập Cận Bình và nhấn mạnh tôn trọng chính sách “một Trung Quốc”, làm dịu bớt những căng thẳng trong quan hệ hai nước về vấn đề Đài Loan. Tuy nhiên, mới đây báo chí lại đưa tin, chính quyền của Tổng thống Mỹ D.Trump đang chuẩn bị chuyển giao lô vũ khí hiện đại, trị giá 1 tỷ USD cho Đài Loan, có thể làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ hai bờ.

 

Việc CHDCND Triều Tiên liên tiếp phóng thử tên lửa cũng đẩy an ninh khu vực vào “vòng tuần hoàn xấu”. Đầu tiên, dưới sự thúc đẩy của Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản đã ký Hiệp định chia sẻ tin tức tình báo quân sự (11-2016). Sau khi ký kết hiệp định này, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể chia sẻ tin tức tình báo quân sự mà không phải thông qua Mỹ. Tiếp đó, Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản tăng cường sự hiện diện quân sự, mở rộng quy mô diễn tập quân sự. Mỹ cũng đổ trách nhiệm cho Trung Quốc đã không tích cực trong việc kiềm chế Bình Nhưỡng phát triển chương trình hạt nhân. Đáng chú ý, sau khi CHDCND Triều Tiên phóng thử 4 tên lửa ngày 6-3-2017, Mỹ lập tức triển khai 2 bệ phóng của hệ thống THAAD đến căn cứ không quân Osan, Hàn Quốc. Mặc dù trong kế hoạch, THAAD không được đưa đến Nhật Bản nhưng nhiều phân tích cho rằng, việc CHDCND Triều Tiên liên tục phóng tên lửa có thể khiến Tokyo cân nhắc một cách nghiêm túc hơn việc sử dụng hệ thống này. Trước khi diễn ra cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ đầu tiên kể từ sau khi D.Trump nhậm chức Tổng thống, mà ở đó dự kiến vấn đề Triều Tiên sẽ là một chủ đề chính, Triều Tiên lại tiếp tục thử tiên lửa như là một hành động thách thức hai cường quốc có ảnh hưởng nhất đối với khu vực này. Tình hình căng thẳng ở Đông Bắc Á lại bị đẩy lên một nấc thang mới. Cuộc gặp thượng đỉnh Trung-Mỹ gần như không đạt được tiến bộ nào về vấn đề chương trình hạt nhân của Triều Tiên ngoài việc hai bên đều cho rằng nó đã đạt tới “giai đoạn nghiêm trọng”. Thêm vào đó, vào đúng thời điểm diễn ra cuộc gặp nhạy cảm này, Tổng thống D.Trump ra lệnh phóng gần 60 quả tên lửa hành trình Tomahawk vào sân bay quân sự Syria, như là một thông điệp răn đe rằng, nếu Trung Quốc không hợp tác, Mỹ sẵn sàng hành động đơn phương và không loại trừ giải pháp quân sự đối với Triều Tiên. Tuy nhiên nếu tình huống này xẩy ra, CHDCND Triều Tiên không cam chịu cúi đầu, có thể Seoul và Nhật Bản sẽ là mục tiêu tấn công đầu tiên của Triều Tiên. Hơn nữa Trung Quốc không thể khoanh tay đứng nhìn, tai họa sẽ lan ra toàn bộ khu vực Đông Bắc Á, hậu quả khó lường. Khả năng này khó đoán định bởi quyền quyết định nằm trong tay Tổng thống D.Trump, một nhân vật có tính khí thất thường, khó đoán định.

 

Trên thực tế, Trung Quốc đã có những nhượng bộ nhất định như việc cấm nhập khẩu than đá của CHDCND Triều Tiên cho tới hết năm 2017. Hành động này của Trung Quốc mang ý nghĩa gửi đi thông điệp cảnh báo mạnh mẽ tới CHDCND Triều Tiên, bởi than đá là mặt hàng xuất khẩu chính và chiếm tới 90% hoạt động thương mại của Bình Nhưỡng. Đây còn là thông điệp gửi tới Tổng thống D.Trump bởi nhà lãnh đạo Mỹ nhiều lần chỉ trích Trung Quốc chưa tích cực kiềm chế tham vọng hạt nhân của CHDCND Triều Tiên. Nhưng nếu Mỹ đòi hỏi nhiều hơn ở Trung Quốc là điều không thực tế, bởi một mặt Trung Quốc không thể làm cho chế độ CHDCND Triều Tiên lâm vào khủng hoảng, mặt khác trên thực tế khả năng kiềm chế của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng là rất có hạn.

 

Liên quan đến bán đảo Triều Tiên, tình hình căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hàn Quốc đang tiếp tục leo thang do việc Mỹ và Hàn Quốc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Vấn đề này cũng là một ẩn số khó dự báo bởi tình hình nội bộ Hàn Quốc đang thời điểm phức tạp, không loại trừ khả năng Tổng thống đắc cử trong cuộc bầu cử tháng 5 tới có lập trường khác biệt về vấn đề này. Trong trường hợp đó, tình hình có thể thay đổi hoàn toàn.

 

Tình hình biển Hoa Đông cũng tiếp tục được coi là điểm nóng trong khu vực. Trong chuyến thăm Nhật Bản tháng 2-2017, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis khẳng định, Chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ giữ nguyên cam kết bảo vệ Nhật Bản với tư cách một đối tác theo Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật, trong đó bao gồm cả quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Điều 5 của Hiệp ước nêu rõ, lực lượng của Mỹ và Nhật Bản sẽ phối hợp đáp trả bất cứ cuộc tấn công nào nhằm vào lãnh thổ do Nhật Bản kiểm soát. Giáo sư Viện quan hệ quốc tế thuộc Đại học Ngoại giao Trung Quốc Zhou Yongsheng nhận định: “Tuyên bố đảo Điếu Ngư cũng thuộc diện theo Điều 5 (Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật) là dấu hiệu cho thấy chính quyền của Tổng thống D.Trump sẽ tiếp tục chiến lược xoay trục sang châu Á có từ thời chính quyền tiền nhiệm, và đó là tin xấu cho Bắc Kinh. Điều này có nghĩa là chính quyền Tổng thống D.Trump sẽ không chỉ thừa hưởng chiến lược xoay trục sang châu Á mà thậm chí còn đưa nó lên một tầm mới”[8].

 

Hiện quan hệ Mỹ - Trung xung quanh vấn đề Đông Bắc Á đang tồn tại nhiều mâu thuẫn và hết sức căng thẳng. Tuy nhiên có thể thấy rõ, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai cường quốc này vẫn chiếm ưu thế. Mỹ là bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc, chiếm gần 20% xuất khẩu của Trung Quốc. Ngược lại, Trung Quốc chiếm 9% hàng hóa xuất khẩu của Mỹ. Trên lĩnh vực tài chính, hai nước liên quan mật thiết với nhau. Dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có khoảng hơn 3.000 tỷ USD và nước này vẫn tiếp tục đầu tư vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Nếu mối quan hệ giữa hai siêu cường này đổ vỡ, Mỹ sẽ khó tìm nguồn tài trợ cho khoản nợ trên thị trường tài chính nước ngoài. Trung Quốc là chủ nợ số một của Mỹ, giữ gần 7% nợ công của Mỹ, khoảng 1.250 tỷ USD. Ngay cả tập đoàn kinh tế của Tổng thống D.Trump và của con gái ông cũng có quan hệ làm ăn mật thiết với Trung Quốc. Vì thế, người ta cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tìm cách kiềm chế, không để quan hệ hai nước rơi vào tình trạng khủng hoảng và nhiều khả năng an ninh Đông Bắc Á vẫn tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát.
Tóm lại, có thể thấy rằng, tình hình Đông Bắc Á thời gian tới tiếp tục có nhiều biến động, thỏa hiệp - cạnh tranh đan xen nhau và chịu sự chi phối sâu sắc của quan hệ Mỹ - Trung. Mặc dù chính sách đối ngoại mới của Mỹ chưa hình thành rõ nét, song xu hướng đẩy mạnh can dự vào châu Á - Thái Bình Dương nói chung, Đông Bắc Á nói riêng vẫn là xu hướng chính. Đa số các nhà phân tích cho rằng, cụm từ “tái cân bằng” không còn được các quan chức dưới chính quyền D.Trump sử dụng, song điều đó cũng sẽ không thay đổi những lợi ích quốc gia cơ bản của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương như việc duy trì các đồng minh, thương mại và đầu tư, tự do hàng hải và hàng không. Do đó, tình trạng gia tăng sức mạnh quân sự, tranh chấp chủ quyền biển đảo và cạnh tranh tại các điểm nóng ở Đông Bắc Á sẽ tiếp tục diễn ra gay gắt, nhưng ít có khả năng bùng phát thành xung đột vũ trang giữa các bên./. 

 

[1] An ninh Đông Bắc Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự gia tăng can dự châu Á của Hoa Kỳ, TS Hoàng Minh Hằng, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, NXB khoa học xã hội 2015

[2] THAAD là hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối được thiết kế để đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm ngắn và tầm trung trong giai đoạn cuối của chuyến bay. Hệ thống radar mà THAAD sử dụng thuộc loại radar quét mạng pha điện tử chủ động (AESA) có khả năng nhận dạng mục tiêu rất cao. Radar có tầm trinh sát khoảng 1.000 km, có thể mở rộng lên đến 4.000 km.

[3] Nhật Bản tăng chi tiêu  quốc phòng kỷ lục trong năm 2017, Báo Quân đội Nhân dân, ngày 2-12-2016.

[4] Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11-3-2017.

[5] Quần đảo Điếu Ngư/Senkaku là nhóm đảo nhỏ nằm cách đảo chính của tỉnh Okinawa của Nhật Bản khoảng 40km về phía tây và hiện do Nhật Bản kiểm soát, nhưng Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và thường xuyên đưa tàu hoặc máy bay đến vùng biển xung quanh quần đảo này.

[6] Đảo Dokdo/Takeshima nằm ở vùng biển phía đông bán đảo Triều Tiên, có diện tích khoảng 0,18 km vuông. Hàn Quốc và Nhật Bản đều tuyên bố chủ quyền. Hiện Hàn Quốc kiểm soát thực tế hòn đảo này.

[7]  Bãi đá ngầm Tô Nham/Ieodo nằm cách đảo Jeru của Hàn Quốc khoảng 150km về phía Tây Nam do Hàn Quốc quản lý, Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền với đảo đá này.

[8] Mỹ sẽ đứng về phía Nhật trong tranh chấp ở Hoa Đông, www.dantri.com.vn, ngày 4-2-2017.

Xem thêm

Trung Quốc và sáng kiến "Một vành đai, Một con đường": Có khó thực hiện?

Trung Quốc và sáng kiến
Tác giả: CSSD

Trong hai ngày (14 - 15/5), Diễn đàn hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy liên kế kinh tế, kết nối khu vực giữa các châu lục, Á, Âu và Phi do Trung Quốc tổ chức sẽ diễn ra tại Bắc Kinh. Diễn đàn mang tên Hợp tác quốc tế Vành đai và Con đường, thu hút sự tham dự của 28 nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ. Đoàn Việt Nam do Chủ tịch nước Trần Đại Quang dẫn đầu tham dự.

Xem thêm

Phó Đại sứ Anh tại Việt Nam đến thăm Trung tâm CSSD

Phó Đại sứ Anh tại Việt Nam đến thăm Trung tâm CSSD

Ngày 08/02/2017, ông Steph Lysaght, Phó Đại sứ Anh tại Việt Nam; và Bà Barbara Amono-Oceng, Trưởng ban Chính trị Đối ngoại đã đến "xông đất" Trung tâm CSSD đầu năm Âm lịch 2017.

Xem thêm