Từ ngày 12 đến 13/12/2023, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam. Chuyến thăm không chỉ ghi dấu ấn nổi bật, tạo điểm nhấn quan trọng đúng dịp kỷ niệm 15 năm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc mà còn tạo động lực thúc đẩy quan hệ hai nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, hướng tới tương lai.
Để làm rõ những kết quả và ý nghĩa đặc biệt của chuyến thăm này, Người Đưa Tin đã có cuộc trao đổi với Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Quang - Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc, nguyên Vụ trưởng Vụ Trung Quốc – Đông Bắc Á, Ban Đối Ngoại Trung ương Đảng, người có nhiều năm nghiên cứu sâu về Trung Quốc và quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Xem thêm
|
Ngày 14/12/2023, Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang có bài trả lời phỏng vấn trên Thời báo Hoàn cầu, với tiêu đề: "Phó Chủ tịch hội Hữu nghị Việt-Trung Nguyễn Vinh Quang: Hợp tác kinh tế thương mại Việt-Trung tiềm năng còn rất lớn chưa khai thác hết". CSSD xin đăng tải bản dịch bài báo này.
Xem thêm
|
Quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc có lịch sử khá đặc biệt. Những người cộng sản của hai nước có quan hệ gắn bó với nhau từ những ngày Đảng còn thai nghén, chưa ra đời. Bởi vậy suốt 100 năm qua, trong mọi hoàn cảnh khác nhau dù khó khăn hay thuận lợi, trục quan hệ hai đảng vẫn luôn đóng vai trò cốt lõi trong quan hệ giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
Nhìn lại hơn 30 năm qua kể từ khi bình thường hóa quan hệ, có thể thấy đây là một giai đoạn mới trong quan hệ hai nước. Mặc dù trải qua những chặng gập ghềnh gian nan nhưng quan hệ hợp tác giữa hai nước đã từng bước được củng cố và phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề tồn tại đã được giải quyết. Đó là kết quả từ những nỗ lực của nhiều bộ ngành, từ Trung ương đến địa phương của cả hai phía, nhưng không thể phủ nhận vai trò dẫn dắt của quan hệ Đảng.
Hiếm có mối quan hệ song phương nào trong khu vực và trên thế giới, ngoài các kênh chính thức của nhà nước và kênh nhân dân, lại có một kênh giao lưu ổn định, có quyền uy và hiệu quả như kênh giao lưu giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Hơn 30 năm qua, mối quan hệ đó được thể hiện ở những thời điểm quan trọng.

Chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 30-10 đến 1-11-2022 theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình là sự kiện đặc biệt quan trọng trong quan hệ hai nước. (Nguồn: TTXVN)
Kênh Đảng được giữ vững trong mọi hoàn cảnh
Quan hệ Việt - Trung đã trải qua 10 năm vô cùng khó khăn và căng thẳng, bất lợi cho sự phát triển của mỗi nước và sự ổn định của khu vực giữa lúc tình hình thế giới có những chuyển biến phức tạp. Nhưng cùng thời điểm đó, công cuộc đổi mới của Việt Nam và cải cách mở cửa của Trung Quốc có những tiến triển tích cực. Xuất phát từ tình hình trong, ngoài nước và nhu cầu phát triển và ổn định lâu dài của cả Trung Quốc và Việt Nam, lãnh đạo cấp cao hai Đảng đã quyết định khởi động quá trình bình thường hóa quan hệ. Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6-1991) khẳng định tư duy đổi mới về quan hệ quốc tế với tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, đồng thời công khai khẳng định chủ trương “thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác quan hệ Việt - Trung, giải quyết những vấn đề còn tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng”.[1]
Chuyến thăm chính thức Trung Quốc tháng 11-1991 của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ hai nước, hai bên ra tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ.
Kể từ khi bình thường hóa đến nay, về tổng thể quan hệ phát triển theo hướng đi lên dù vẫn trải qua những chặng gập ghềnh và thăng trầm. Có những thời điểm khó khăn, song song với giao lưu, đấu tranh, thúc đẩy giải quyết bất đồng, hai Đảng vẫn duy trì ổn định, thực hiện các kế hoạch trao đổi hằng năm, bao gồm cả gặp gỡ cấp cao, hội thảo lý luận, giao lưu các ban Đảng, các chương trình hợp tác đào tạo đều giữ đúng tiến độ.
Việc duy trì ổn định kênh Đảng trong những lúc quan hệ gặp khó khăn như vậy có tác dụng định hướng cho các mối quan hệ trên các lĩnh vực khác, không để các bất đồng song phương vượt ra ngoài tầm kiểm soát.
Những quyết định quan trọng từ các cuộc gặp giữa Tổng Bí thư hai Đảng
Kể từ năm 1991 đến nay, giao lưu cấp cao mà quan trọng nhất là các cuộc gặp gỡ giữa hai Tổng Bí thư hai Đảng diễn ra rất thường xuyên. Tổng Bí thư hai Đảng đã thực hiện 17 chuyến thăm lẫn nhau. Trừ mấy năm đại dịch không thể bố trí gặp gỡ. Kể từ năm 2013, hai Tổng Bí thư hàng năm có các cuộc điện đàm qua đường dây nóng trong những dịp diễn ra các sự kiện quan trọng của hai nước.
Những quyết định mang tính chỉ đạo quan hệ Việt - Trung trong suốt hơn 30 năm qua đều được đưa ra trong các chuyến thăm lẫn nhau của Tổng Bí thư hai Đảng. Xin điểm lại một số mốc quan trọng:
Tháng 11-1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc, hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Giang Trạch Dân và Thủ tướng Quốc Vụ viện Lý Bằng, hai bên ra Thông cáo chung, tuyên bố bình thường hóa quan hệ hai Đảng, hai nước.
Tháng 7-1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc. Trước khi kết thúc chuyến thăm, rời thành phố Côn Minh về nước, Tổng Bí thư Đỗ Mười gửi đến Tổng Bí thư Giang Trạch Dân một lá thư, khẳng định lại một số thỏa thuận quan trọng, trong đó nêu kiến nghị xác định rõ ràng thời hạn giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và trên Vịnh Bắc Bộ. Cụ thể là giải quyết xong vấn đề biên giới trên bộ trong năm 1999 và vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000. Một tháng sau (tháng 8-1997), Tổng Bí thư Giang Trạch Dân có thư phúc đáp, hoàn toàn tán thành ý kiến của Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Tháng 2-1999, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc, hai bên điểm lại những bước tiến trong quan hệ sau 8 năm bình thường hóa và thấy rằng cần phải có định hướng rõ ràng hơn để quan hệ hai nước phát triển một cách ổn định và bền vững lâu dài. Hai bên đã xác định phương châm chỉ đạo quan hệ Việt - Trung trong thế kỷ 21 bằng 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Cũng trong chuyến thăm này, thực hiện thỏa thuận giữa hai Tổng Bí thư năm 1997, hai bên tuyên bố “quyết tâm đẩy nhanh tiến trình đàm phán, nâng cao hiệu suất công tác, ký kết Hiệp ước về biên giới trên bộ trong năm 1999; giải quyết xong vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000”.[2] Như vậy, thời hạn giải quyết hai vấn đề quan trọng về biên giới lãnh thổ đã được xác định rõ ràng và công khai.
Tháng 11-2005, Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào thăm hữu nghị chính thức Việt Nam, hai bên lấy “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” làm mục tiêu phấn đấu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, sau này được gọi là “tinh thần 4 tốt”.
Tháng 6-2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm hữu nghị chính thức Trung Quốc, hai bên nhất trí nâng quan hệ Việt - Trung lên thành “Quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”.
Tháng 10-2011, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Trung Quốc, hai bên ký “Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc”.
Tháng 10-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Trung Quốc là chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng. Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sau Đại hội XIII của Đảng và diễn ra ngay sau khi Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa kết thúc. Những nhận thức chung của hai Tổng bí thư đã tháo gỡ những bế tắc tồn tại trong thời gian cả hai nước phải đối phó với đại dịch Covid-19, mở ra một giai đoạn phát triển mới, thuận lợi hơn cho quan hệ hợp tác song phương.
Ngoài các cuộc gặp gỡ giữa hai Tổng Bí thư, thông qua kênh Đảng, các Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, lãnh đạo các Ban Đảng hai bên đã tiến hành các chuyến thăm, giao lưu, trao đổi thông tin và thảo luận về những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm. Gặp gỡ tiếp xúc cấp cao hai Đảng đã trở thành truyền thống, giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giữ vững định hướng phát triển quan hệ hai Đảng, hai nước.
Trao đổi lý luận là hoạt động hợp tác thực sự bổ ích
Hợp tác nghiên cứu lý luận giữa hai Đảng đã trở thành điểm sáng trong quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong bối cảnh các Đảng Cộng sản cầm quyền không còn nhiều, mấy chục năm qua, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành công cuộc đổi mới và cải cách mở cửa, xây dựng những mô hình chưa có tiền lệ, việc trao đổi, tham khảo lẫn nhau về lý luận và kinh nghiệm thực tiễn đã trở thành nhu cầu của cả hai bên.
Đến nay, hội thảo lý luận giữa hai Đảng đã diễn ra 17 cuộc (kể cả hội thảo trực tuyến). Ngoài hội thảo lý luận do lãnh đạo cấp Ủy viên Bộ Chính trị hai Đảng chủ trì, nhiều cơ quan nghiên cứu lý luận, các ban ngành liên quan cũng tiến hành nhiều cuộc trao đổi lý luận trên nhiều lĩnh vực, như Tạp chí Cộng sản với Tạp chí Cầu thị, Báo Nhân Dân với Nhân dân nhật báo, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh với Trường Đảng Trung ương Trung Quốc, trao đổi chuyên đề giữa Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam với Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc v.v... Các cuộc hội thảo và trao đổi lý luận này không những là cơ hội tham khảo lẫn nhau về lý luận, bổ sung cho nhau về kinh nghiệm thực tiễn, mà còn tăng thêm hiểu biết lẫn nhau và góp phần tăng cường tin cậy lẫn nhau. Trao đổi lý luận giữa hai Đảng cũng đã làm phong phú thêm kho tàng lý luận xây dựng đảng, xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi Đảng, mỗi nước, đồng thời có giá trị tham khảo cho các đảng anh em khác.
Tuy nhiên, học tập lẫn nhau không có nghĩa là bắt chước. Đó chỉ có giá trị tham khảo, còn phải trải qua quá trình nghiên cứu, chọn lọc để áp dụng thích hợp cho mỗi đảng, mỗi nước.
Trực tiếp tham gia thúc đẩy giải quyết các vấn đề bất đồng
Hơn 30 năm qua, thành tựu nổi bật nhất là hai bên đã giải quyết được một số vấn đề cơ bản tồn tại giữa hai nước do lịch sử để lại. Hai bên đã đạt được nhiều thỏa thuận mang tính nguyên tắc và hai Chính phủ đã thiết lập các cơ chế giải quyết như Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương, các cơ chế đàm phán, các tổ công tác v.v... Trong đó, quan trọng nhất là thỏa thuận đạt được giữa hai Tổng Bí thư năm 1997, công bố năm 1999 về quyết tâm giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền và trên Vịnh Bắc Bộ đã được thực hiện thành công đúng thời hạn.
Trước những vấn đề nảy sinh làm quan hệ trở nên xấu đi, thậm chí căng thẳng, ngoài việc trao đổi ý kiến tại các cơ chế đã có, hai bên đã phải tiếp xúc, trao đổi ý kiến qua kênh Đảng. Thực tế cho thấy cách tiếp xúc kênh đảng là thiết thực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề nhanh chóng và thỏa đáng hơn.
Nhìn lại hơn 30 năm qua và xa hơn là 100 năm qua, quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn đóng vai trò cốt lõi trong lịch sử quan hệ hai nước. Đến nay, trong bối cảnh mới, quan hệ đó có thể không giống như những năm 1950, 1960 của thế kỷ trước, nhưng vẫn giữ một vai trò quan trọng. Thời gian tới, với vai trò nòng cốt của quan hệ Đảng và truyền thống hợp tác giữa hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, chúng ta thấy rằng những thỏa thuận quan trọng mà lãnh đạo cấp cao hai bên đã đạt được sẽ là phương hướng phấn đấu đúng đắn cho quan hệ hữu nghị Việt -Trung, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì sự ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới.
NGUYỄN VINH QUANG, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Phát triển quan hệ quốc tế; nguyên Vụ trưởng Vụ Trung Quốc – Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng
---
[1] Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII 1991.
[2] Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc năm 1999.
* Bài viết đăng trên Báo Quân đội Nhân dân điện tử, CSSD đăng lại với sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang
Xem thêm
|
|
|
|
|
VTV.vn - Năm 2021 sắp đi qua, cùng nhìn lại sự kiện Trung Quốc kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản, với những dấu ấn của quá khứ và những hàm ý trong tương lai.
Năm 2021 đánh dấu một cột mốc hết sức quan trọng đối với Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc tròn 100 năm tuổi.
"Thời đại mới" và "Giấc mơ Trung Quốc"
Theo cách phân tích của Đảng Cộng sản Trung Quốc, lịch sử Trung Quốc từ thời cận đại có thể chia thành bốn giai đoạn khác nhau. Kể từ khi chủ nghĩa đế quốc phương Tây đô hộ từ giữa thế kỷ XIX, xã hội Trung Quốc trở thành xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến, đất nước lâm vào thời kỳ đen tối nhất mà người Trung Quốc gọi là "trăm năm ô nhục", là "thế kỷ nhục nhã" của dân tộc Trung Hoa. Năm 1949, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ mới do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo thành công, lập nên nước CHND Trung Hoa, Trung Quốc bước vào "thời đại đứng lên". Từ khi thực hiện công cuộc cải cách mở cửa bắt đầu từ năm 1978, kinh tế phát triển với tốc độ phi mã, thành tựu rực rỡ, đất nước thay đổi một cách đáng kinh ngạc. Đó là "thời đại giàu lên". Tổng Bí thư Tập Cận Bình cho rằng, giờ đây Trung Quốc đã bước vào thời đại mới – "thời đại mạnh lên".
Một dân tộc có 5 ngàn năm lịch sử với bao nhiêu cống hiến cho nhân loại trong quá khứ bỗng nhiên bị đế quốc phương Tây chèn ép, bắt nạt, đẩy vào cảnh ngộ lầm than, ô nhục, dân tộc này đã nuôi một ý chí phục hưng từ đó. Đó chính là "Giấc mơ Trung Quốc", là khát vọng tìm lại sự vĩ đại trong quá khứ của dân tộc Trung Hoa, giấc mơ đó đã ăn sâu vào lòng người Trung Quốc. Nhưng hàng trăm năm nay giấc mơ vẫn chưa thành hiện thực. Giờ đây, khi nhìn lại lịch sử 100 năm của Đảng, Tổng Bí thư Tập Cận Bình khẳng định chắc chắn rằng: "Ngày nay, chúng ta đang ở gần hơn, có lòng tin và năng lực hơn để thực hiện mục tiêu phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa so với bất kỳ thời kỳ nào trong lịch sử".
Năm 2021 cũng là năm Trung Quốc tuyên bố hoàn thành "mục tiêu 100 năm" thứ nhất, xây dựng thành công toàn diện xã hội khá giả, bước vào tiến trình mới thực hiện "mục tiêu 100 năm" thứ hai từ nay đến giữa thế kỷ, đó là hiện thực hóa "Giấc mơ Trung Quốc".
Hội nghị Trung ương lần thứ 6
Ngoài lễ kỷ niệm long trọng được tổ chức đúng ngày 01 tháng 7, ngày thành lập Đảng cách đây 100 năm, tháng 11 vừa qua đã diễn ra Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 khóa XIX. Đây không chỉ là một sự kiện chính trị có ý nghĩa đặc biệt của năm 2021 mà còn là sự kiện đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Theo thông báo chính thức, Hội nghị này đã xem xét và thông qua "Nghị quyết về triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX của Đảng" vào nửa cuối năm 2022. Nhưng sự kiện đáng được quan tâm nhất đối với nhân dân trong nước và dư luận quốc tế là Hội nghị đã xem xét và thông qua Nghị quyết "Về những thành tựu quan trọng và kinh nghiệm lịch sử trong 100 năm phấn đấu của Đảng", còn gọi là "Nghị quyết lịch sử thứ ba".
Tại sao lại là "Nghị quyết lịch sử thứ ba"? Trong 100 năm qua, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã từng đưa ra hai "Nghị quyết lịch sử", những nghị quyết này nhằm nhìn lại một một chặng đường đã đi, tổng kết chỗ đúng, chỗ sai, đúc rút bài học kinh nghiệm cho chặng đường tiếp theo. Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc vô cùng phức tạp, không biết bao nhiêu thăng trầm của Đảng dẫn đến những biến động dữ dội của đất nước đông dân nhất thế giới này. Bởi vậy việc tổng kết từng giai đoạn lịch sử, khẳng định đúng-sai thật không hề đơn giản.
Nhìn lại những "Nghị quyết lịch sử" trong quá khứ
"Nghị quyết lịch sử thứ nhất" ra đời năm 1945, khi Đảng chưa cầm quyền. Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa VI diễn ra tại căn cứ địa cách mạng Diên An kéo dài từ tháng 5 năm 1944 đến tháng 4 năm 1945 với nhiều nội dung quan trọng. Một cuộc Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng kéo dài gần một năm trời đã cho thấy rõ ràng đây là một cuộc chỉnh đốn Đảng, một cuộc đấu tranh nội bộ hết sức gay gắt. Hội nghị nhìn lại quá trình cách mạng kể từ khi thành lập Đảng năm 1921 đến thời điểm lúc bấy giờ (năm 1945), nhưng chủ yếu tập trung phân tích diễn biến tình hình từ Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (năm 1931) đến trước Hội nghị Tuân Nghĩa (năm 1935). Đó là lúc Đảng Cộng sản và Hồng quân lâm vào nguy cơ bị diệt vong, những sai lầm "tả khuynh" trong Đảng gây tổn thất to lớn cho cách mạng Trung Quốc, đồng thời tạo thành cuộc khủng hoảng nội bộ Đảng. Cuối cùng Trung ương Đảng quyết định thực hiện cuộc rút lui chiến lược đầy gian khổ để bảo toàn lực lượng – cuộc "Vạn lý trường chinh" trên chặng đường hiểm trở dài 12.000 km.
Thành quả quan trọng của Hội nghị Trung ương 7 khóa VI là thông qua "Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử", trong đó phân tích những sai lầm nghiêm trọng của "chủ nghĩa tả khuynh mạo hiểm" mà đại diện là Ủy viên Bộ Chính trị Vương Minh, đồng thời đánh giá cao những cống hiến của Mao Trạch Đông. Ngay sau khi Hội nghị kết thúc vài ngày là Đại hội Đảng lần thứ VII, xác lập "Tư tưởng Mao Trạch Đông" là tư tưởng chỉ đạo của Đảng.
"Nghị quyết lịch sử thứ hai" ra đời năm 1981, khi công cuộc cải cách mở cửa vừa mới bắt đầu. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XI thảo luận và thông qua "Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử kể từ khi thành lập nước", nhìn lại quãng thời gian 30 năm từ khi nước CHND Trung Hoa ra đời (năm 1949) đến giai đoạn đầu cải cách mở cửa. Nghị quyết đã chỉ ra một số sai lầm làm cho đất nước lâm vào khó khăn, phân biệt rạch ròi sự đúng đắn của "Tư tương Mao Trạch Đông" với những sai lầm 20 năm cuối đời của cá nhân Mao Trạch Đông, kết luận công-tội rõ ràng. Đặc biệt Nghị quyết đã phân tích nguyên nhân và rút ra những bài học từ những sai lầm của Đảng do Mao Trạch Đông làm hạt nhân như, xác định sai mâu thuẫn chủ yếu trong nước, có tư tưởng duy ý chí, nóng vội, quyền lực quá tập trung vào tay cá nhân, tệ sùng bái cá nhân v.v... dẫn đến những sai lầm lớn như "đại nhảy vọt" (1958-1960) và tai họa nhất là 10 năm "Đại cách mạng văn hóa vô sản" (1966-1976). Nghị quyết đã làm thay đổi một cách cơ bản tư duy trong toàn Đảng, từ đó xóa bỏ tư tưởng duy ý chí và phương châm "hai phàm là" để nhìn thẳng vào thực tiễn, vững tin bước vào công cuộc cải cách mở cửa.
"Nghị quyết lịch sử thứ ba"
Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XIX lần này được gọi là "Nghị quyết lịch sử thứ ba" vì nó ra đời vào thời điểm lịch sử khi Đảng Cộng sản Trung Quốc tròn 100 năm tuổi. Nội dung Nghị quyết gồm 7 phần chính: (1) Giành thắng lợi vĩ đại cuộc cách mạng dân chủ mới; (2) Hoàn thành cách mạng XHCN và thúc đẩy xây dựng CNXH; (3) Tiến hành cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa XHCN; (4) Mở ra thời đại mới XHCN đặc sắc Trung Quốc; (5) Ý nghĩa lịch sử 100 năm phấn đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc; (6) Kinh nghiệm lịch sử 100 năm phấn đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc; (7) Đảng Cộng sản Trung Quốc thời đại mới.
Nhìn tổng thể, Nghị quyết này có ba đặc điểm khác với hai "Nghị quyết lịch sử" trước đó. Trước hết, khoảng thời gian của Nghị quyết này xuyên suốt 100 năm lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong khi hai nghị quyết trước đó chỉ giới hạn trong một khoảng thời gian cụ thể sau khi Đảng được thành lập. Thứ hai, lần này không đi sâu phân tích những sai lầm quá khứ. Tổng Bí thư Tập Cận Bình cho rằng: "Hai nghị quyết trước cơ bản đã giải quyết những vấn đề đúng sai quan trọng trong lịch sử của Đảng kể từ khi thành lập đến thời kỳ đầu cải cách mở cửa, những lập luận và kết luận cơ bản đến nay vẫn còn nguyên giá trị". Bởi vậy Nghị quyết lần này tập trung tổng kết những thành tựu quan trọng và những kinh nghiệm lịch sử 100 năm qua của Đảng. Thứ ba, Nghị quyết này nêu bật trọng điểm "thời đại mới" của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. "Thời đại mới" là khái niệm được định danh từ Đại hội XIX của Đảng năm 2017 trên cơ sở xác định thành tựu của 40 năm cải cách mở cửa. Có thể hiểu rằng, nêu bật trọng điểm thời đại mới có nghĩa là tập trung phân tích tương lai nhiều hơn.
Nghị quyết nhấn mạnh "hai xác lập" quan trọng. Đó là xác lập đồng chí Tập Cận Bình giữ vai trò hạt nhân trong Trung ương Đảng và vai trò hạt nhân trong toàn Đảng; xác lập vai trò chỉ đạo của Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới.
So sánh bối cảnh ra đời cả 3 "Nghị quyết lịch sử" có thể thấy rằng, "Nghị quyết lịch sử thứ nhất" xác lập địa vị tối cao của Chủ tịch Mao Trạch Đông trong giai đoạn cách mạng dân chủ mới để đi đến thắng lợi bằng sự ra đời của nước CHND Trung Hoa; "Nghị quyết lịch sử thứ hai" xác lập địa vị tối cao của Đặng Tiểu Bình trong giai đoạn cải cách mở cửa để đi đến thắng lợi vĩ đại đưa đất nước giàu lên nhanh chóng; "Nghị quyết lịch sử thứ ba" xác lập vai trò "hạt nhân" của Tổng Bí thư Tập Cận Bình và vai trò chỉ đạo của Tư tưởng Tập Cận Bình trong tiến trình thực hiện "giấc mơ phục hưng dân tộc Trung Hoa" từ nay đến giữa thế kỷ. Dư luận cho rằng, mặc dù Nghị quyết tập trung vào những thành tựu quan trọng và kinh nghiệm lịch sử trong 100 năm phấn đấu của Đảng, nhưng nổi bật nhất vẫn là vấn đề vai trò hạt nhân trong Đảng của Tổng Bí thư Tập Cận Bình.
Phát biểu tại cuộc họp báo về Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XIX, ông Giang Kim Quyền, Chủ nhiệm Văn phòng Nghiên cứu chính sách Trung ương Đảng nhấn mạnh: "Việc giữ vững và bảo vệ vị trí hạt nhân của Tổng Bí thư Tập Cận Bình là để đảm bảo Đảng có người ra quyết định quan trọng, nhân dân có chỗ dựa và con tàu phục hưng dân tộc có người cầm lái". Ông còn nhắc lại lời của Đặng Tiểu Bình trước đây rằng: "Bất kỳ một tập thể lãnh đạo nào cũng cần có một hạt nhân, không có lãnh đạo hạt nhân thì đứng không vững". Ông nói thêm: "Vậy 95 triệu đảng viên, 56 dân tộc, 1,4 tỷ người nếu như không có hạt nhân của Trung ương, hạt nhân toàn Đảng thì không thể tưởng tượng được, rất dễ đổ vỡ, làm gì cũng không thành".
Có lẽ cũng vì như vậy mà toàn văn Nghị quyết dài hơn 36 ngàn chữ, tổng kết 100 năm phấn đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã dành đến hơn một nửa, tức hơn 18 ngàn chữ nói về những thành tựu quan trọng 9 năm qua từ Đại hội XVIII (năm 2012) khi Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí thư đến nay. Những thành tựu đó được thể hiện trên 13 lĩnh vực, cụ thể như: về việc kiên trì sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; về quản lý Đảng nghiêm minh toàn diện; về xây dựng kinh tế; về đi sâu cải cách mở cửa toàn diện; về xây dựng chính trị; về quản lý đất nước theo pháp luật toàn diện; về xây dựng văn hoá; về xây dựng xã hội; về xây dựng văn minh sinh thái; về xây dựng quốc phòng và quân đội; về bảo vệ an ninh quốc gia; về kiên trì "một nước hai chế độ" và thúc đẩy thống nhất Tổ quốc và về công tác ngoại giao.
Một nội dung có ý nghĩa lịch sử khác là Nghị quyết đã đúc kết 10 kinh nghiệm lịch sử trong suốt 100 năm qua của Đảng Cộng sản Trung Quốc, còn gọi là "10 kiên trì": (1) Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng; (2) Kiên trì nhân dân trên hết; (3) Kiên trì sáng tạo lý luận; (4) Kiên trì độc lập tự chủ; (5) Kiên trì con đường Trung Quốc; (6) Kiên trì rộng lòng với thiên hạ; (7) Kiên trì mở mang sáng tạo; (8) Kiên trì dám đấu tranh; (9) Kiên trì mặt trận thống nhất; (10) Kiên trì tự cách mạng bản thân.
Như vậy nghị quyết đã trả lời câu hỏi mà Tổng Bí thư Tập Cận Bình đã đặt ra trong bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 01 tháng 7 năm nay, đó là "từ 100 năm phấn đấu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhìn rõ tại sao chúng ta đã thành công trong quá khứ và làm thế nào để tiếp tục thành công trong tương lai"’.
Qua những kết luận của Hội nghị Trung ương lần này được thể hiện trong Nghị quyết, có thể nhận biết được vai trò "cầm lái" của Tổng Bí thư Tập Cận Bình trong lộ trình phía trước của Trung Quốc. Không cần suy luận nhiều người ta cũng có thể thấy Đại hội XX sắp tới, ông sẽ tiếp tục giữ vai trò hạt nhân ít nhất một nhiệm kỳ nữa. Thậm chí giới phân tích cho rằng, với việc xóa bỏ giới hạn nhiệm kỳ Chủ tịch nước trong Hiến pháp Trung Quốc năm 2018 và chủ trương "hai xác lập" tại Nghị quyết lần này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã mở lại con đường "lãnh đạo suốt đời" cho nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước./.
* Bài viết đăng trên Báo điện tử VTV, CSSD xin đăng lại với sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang.
Xem thêm
|
|
Nguyễn Vinh Quang
Cố vấn cao cấp CSSD
Sự kiện Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris thăm Singapore và Việt Nam vừa qua nhận được sự quan tâm đặc biệt của dư luận trong khu vực và trên thế giới.
Xem thêm
|
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1/7/1921-1/7/2021), Cố vấn cao cấp CSSD, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị VIệt Nam - Trung Quốc, Nguyễn Vinh Quang có bài viết về những thành tựu cơ bản của Trung Quốc, đồng thời, chúc mừng về những thành tựu mà Đảng và Nhân dân Trung Quốc đã đạt được trong 100 năm qua. Bài viết đăng trên Tạp chí Thời đại; được sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang, CSSD xin đăng lại toàn văn bài viết.
Nhìn lại xã hội Việt Nam và xã hội Trung Quốc 100 năm trước, chúng ta không thể tưởng tượng được có ngày hôm nay. Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, Trung Quốc là xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến, người dân chịu nhiều tầng áp bức, bóc lột.
Ngày nay, nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc đã làm chủ đất nước mình. Cả hai quốc gia đều đang phát triển với tốc độ cao hàng đầu trên thế giới. Trung Quốc đã có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới; Việt Nam là quốc gia phát triển nhanh trong khu vực. Sự thay đổi kỳ diệu 100 năm qua không thể phủ nhận tính ưu việt của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản hai nước.
Kể từ khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền, thành lập nước CHND Trung Hoa đến nay, dù phải trải qua bao cơn sóng gió, bao nhiêu chặng đường khúc khuỷu, gập ghềnh, Đảng vẫn kiên trì vai trò lãnh đạo của mình. Đặc biệt, từ khi bắt đầu cuộc cách mạng cải cách mở cửa đến nay đã hơn 40 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc đã làm nên kỳ tích có ý nghĩa lịch sử. Những thay đổi long trời lở đất của đất nước Trung Quốc, cả thế giới đều chứng kiến.
.jpg)
Đoàn đại biểu Hội Hữu nghị Việt Nam –Trung Quốc thăm nơi nơi Bác Hồ từng làm việc tại Liễu Châu năm 2019.
Năm nay, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng là năm tổng kết thực hiện mục tiêu 100 năm thứ nhất mà Đảng đề ra: Xây dựng thành công toàn diện xã hội khá giả. Đầu năm 2021, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình tuyên bố cuộc chiến thoát nghèo của Trung Quốc đã thắng lợi hoàn toàn. Đây là một kỳ tích. Khi nước CHND Trung Hoa thành lập 72 năm trước, lúc đó, đất nước này có số người nghèo đông nhất thế giới. Đến nay, tuyên bố khẳng định, toàn bộ người nghèo ở nông thôn Trung Quốc đã thoát nghèo theo tiêu chuẩn hiện hành của Liên hợp quốc. Như vậy trong 40 năm cải cách mở cửa, 770 triệu người Trung Quốc đã thoát nghèo, chiếm đến 70% số người được thoát nghèo trên thế giới. Đặc biệt những năm gần đây cuộc chiến thoát nghèo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc do đồng chí Tập Cận Bình làm hạt nhân được đẩy nhanh chưa từng có. Không có một quốc gia nào trên thế giới có thể xóa nghèo cho gần 100 triệu dân chỉ trong khoảng thời gian 8 năm.
Tôi cho rằng đây là thành tựu cơ bản nhất và có ý nghĩa lịch sử quan trọng nhất trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội khá giả của Trung Quốc. Đảng Cộng sản đã thực hiện thành công lời hứa với nhân dân, làm tăng uy tín của Đảng trong lòng dân.
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc đã kết thúc thắng lợi một giai đoạn lịch sử trọng đại, tạo cơ sở để mở đầu cho giai đoạn mới trong tiến trình đi đến mục tiêu trở thành cường quốc hiện đại hóa XHCN giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa, tươi đẹp.
Những người cộng sản Việt Nam và Trung Quốc đã có quan hệ mật thiết với nhau suốt 100 năm nay. Hai Đảng Cộng sản đã cùng hợp tác và giúp đỡ nhau trong cách mạng dân tộc, dân chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của mỗi nước. Quan hệ hai nước Việt-Trung dù đã trải qua nhiều sóng gió vẫn giữ được hướng đi đúng đắn. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và cải cách mở cửa, hai Đảng vẫn duy trì hợp tác, trao đổi kinh nghiệm lý luận và thực tiễn, thúc đẩy hợp tác toàn diện vì lợi ích của nhân dân hai nước.
.jpg)
Ông Nguyễn Vinh Quang, Trưởng đoàn đại biểu Hội Hữu nghị Việt Nam –Trung Quốc ghi lưu niệm tại Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Liễu Châu.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc, là một người nhiều năm nghiên cứu tình hình Trung Quốc và từng tham gia xây dựng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước, nay là Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt-Trung, tôi cảm thấy vui mừng và chân thành chúc mừng về những thành tựu mà Đảng và nhân dân Trung Quốc đã đạt được 100 năm qua. Chúc Đảng Cộng sản Trung Quốc giành nhiều thắng lợi ngày càng to lớn trong tiến trình mới, vì hạnh phúc của nhân dân Trung Quốc, vì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới. Chúc quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng củng cố và phát triển./.
Xem thêm
|
QĐND - Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của Việt Nam là cuộc cách mạng vĩ đại của thế kỷ 20. Thắng lợi của dân tộc Việt Nam không thể tách rời sự ủng hộ to lớn và hiệu quả của bạn bè trên thế giới. Nhịp cầu quan trọng nhất kết nối giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, với phong trào cộng sản công nhân quốc tế, với nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới chính là Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Người đã gắn kết sự nghiệp cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, kết hợp một cách tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bởi vậy, Người đã tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế dưới nhiều hình thức phong phú và hiệu quả.
1. Nắm rõ tình hình quốc tế, tìm đến sự đồng cảm của nhân dân thế giới
Năm 1911, khi rời đất nước ra đi, chàng trai Nguyễn Tất Thành chỉ mới biết được nỗi khổ của người dân Việt Nam, biết được sự bất công trong một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nhưng chưa biết thế giới bên ngoài đang tồn tại như thế nào. Anh phải đến thẳng nước Pháp, nước Anh, vào trong sào huyệt của chủ nghĩa thực dân để tìm hiểu và so sánh với thực tiễn xã hội Việt Nam. Anh đã nhận thức đối tượng của cách mạng thế giới là chủ nghĩa thực dân đế quốc nói chung, không phân biệt màu da. Vì ở bất cứ đâu, chủ nghĩa đế quốc cũng tàn bạo, bất công và độc ác. Nhân dân lao động ở các nước thuộc địa hay phụ thuộc và ngay cả ở các chính quốc đều bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, bóc lột. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng thế giới. Từ nhận thức trên, Người rút ra kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật thôi: Tình hữu ái vô sản”(1). Chính “tình hữu ái vô sản” mà Người phát hiện ra đó đã được Người và nhiều nhà cách mạng vô sản khác trên thế giới làm sống dậy, mang đến sức mạnh cho phong trào cách mạng các nước, trong đó có Việt Nam sau này.
Nhiều bài báo, nhiều buổi diễn thuyết của Người tại các cuộc biểu tình hay các diễn đàn quốc tế đã chuyển đến những người cùng cảnh ngộ trên thế giới về nỗi thống khổ và tình cảm của những người Việt Nam đang bị áp bức, và ngược lại, giành được sự đồng cảm của đông đảo nhân dân tiến bộ trên thế giới. Trong kháng chiến, dù coi Pháp, Mỹ là kẻ thù, là đối tượng của cuộc kháng chiến, Người vẫn luôn nhắc nhở nhân dân ta phân biệt rõ ràng đế quốc thực dân xâm lược với nhân dân lao động, coi nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ như là đồng minh tự nhiên, không chút hận thù và còn đặt lòng tin vào sự thức tỉnh lương tri của họ.
Giữa năm 1964, Người đã tuyên bố rõ quan điểm của Việt Nam về nước Mỹ: “Chúng tôi phân biệt nhân dân Mỹ với đế quốc Mỹ”; “Chúng tôi muốn có những quan hệ hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ mà chúng tôi rất kính trọng”(2). Người tin rằng mỗi khi “lương tâm người Mỹ nổi giận” sẽ góp phần thay đổi cục diện cuộc chiến tranh: “Nhân dân Mỹ đánh từ trong đánh ra, nhân dân ta đánh từ ngoài vào. Hai bên giáp công mạnh mẽ, thì đế quốc Mỹ nhất định sẽ thua, nhân dân Việt-Mỹ nhất định sẽ thắng”(3).
Đối với các quốc gia đồng minh, bè bạn gần gũi, không những Người đã thúc đẩy sự ủng hộ và hợp tác của chính quyền mà còn tranh thủ được tình cảm trong lòng dân. Là một người từng công tác tại Trung Quốc gần chục năm, một trong những điều tôi cảm nhận sâu sắc nhất là người dân Trung Quốc có thể có những quan điểm khác nhau về đất nước, con người Việt Nam, nhưng hình ảnh Bác Hồ trong lòng họ gần như không khác nhau. Trên đất nước Trung Quốc rộng lớn hiện có khoảng hơn 70 di tích liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và rất nhiều trong số đó không chỉ được Trung Quốc bảo tồn, giữ gìn nguyên vẹn mà từng ngày, từng giờ được giới thiệu với đông đảo công chúng, khách tham quan trong nước và quốc tế về những giá trị lịch sử-văn hóa mang dấu ấn Hồ Chí Minh.

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp, ủng hộ Luận cương của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Ảnh: hochiminh.vn.
2. Tranh thủ sự ủng hộ của các chính khách, các quốc gia có thực lực và các tổ chức quốc tế
Trước tiên phải nói đến bản “Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam” mà Người đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước, ký tên Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Versailles tháng 6-1919. Người biết rằng đây là cuộc gặp giữa nguyên thủ các đế quốc thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, là những nhân vật có thế lực, có tiếng nói quyết định đối với trật tự thế giới. Đặc biệt trong đó có Tổng thống Mỹ, bấy giờ là Woodrow Wilson, người trước đó vừa công bố chương trình 14 điểm, trong đó đáng quan tâm là điểm thứ 5: “Điều chỉnh một cách tự do, công bằng quyền yêu sách của các thuộc địa, đặt mối quan tâm tới quyền lợi của những người dân bị tác động ngang hàng với lợi ích của các chính phủ liên quan tới yêu sách”. Người trực tiếp gặp Tổng thống Wilson để đưa đơn thỉnh nguyện và hy vọng đây là cơ hội cho nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các quốc gia thuộc địa. Tuy bản yêu sách không được chấp nhận nhưng đã được lan truyền rộng rãi, gây tiếng vang lớn trong dư luận nước Pháp, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của các nước thuộc địa.
Sau khi giành chính quyền, Người vẫn luôn quan tâm đến việc tranh thủ các nhân vật quyền lực của các cường quốc, kể cả các quốc gia phía bên kia chiến tuyến. Vô số ví dụ về những yêu cầu đầy tính thuyết phục của Người. Những năm 1945-1946, Người đã nhiều lần gửi thư cho Tổng thống Mỹ, với lời lẽ ngoại giao, hoan nghênh tuyên bố của Tổng thống Mỹ, nhất là những điểm liên quan trực tiếp tới quyền độc lập của các dân tộc “nhược tiểu”, đồng thời yêu cầu nước Mỹ thực hiện tuyên bố đó.
Tháng 10-1945, chính quyền của Tổng thống Truman ra tuyên bố chính sách đối ngoại 12 điểm của Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó nêu rõ Mỹ sẽ “không phản đối và cũng không giúp Pháp tái lập sự kiểm soát ở Đông Dương”. Nhận thức rõ vai trò to lớn của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương lúc bấy giờ, Người coi đây là cơ hội để tiếp cận với Mỹ nhằm khai thác những điểm tích cực trong tuyên bố đó. Ngày 12-10-1945, với tư cách người đứng đầu Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Người đã gửi cho Tổng thống Mỹ Truman bức thư bày tỏ sự hoan nghênh đối với chính sách đối ngoại của Mỹ nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ và các nước cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Bức thư đến Văn phòng Tổng thống Mỹ ngày 2-11-1945. Cùng ngày, tại Hà Nội, trong cuộc gặp gỡ các nhà báo nước ngoài, trả lời những câu hỏi về quan điểm của Chính phủ Việt Nam đối với chính sách đối ngoại của Mỹ, Người nêu rõ, nhân dân Việt Nam hoan nghênh, ủng hộ tuyên bố 12 điểm của Tổng thống Truman và tin tưởng rằng nước Mỹ sẽ sớm thực hiện chúng.
Cũng trong thời gian này, Người đã có công hàm gửi Chính phủ các nước: Trung Quốc, Mỹ, Liên Xô và Vương quốc Anh, đề nghị ngăn chặn việc quân đội Pháp xâm lược miền Nam Việt Nam, đưa vấn đề Đông Dương ra Liên hợp quốc, trao trả độc lập cho các nước Đông Dương.
3. Muốn người khác giúp đỡ, mình phải có sức mạnh bên trong
Đó là quan điểm nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã chỉ ra rằng: “Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ ở nơi lực lượng của Việt Nam”; “Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã”. Trong khi định ra đường lối quốc tế và sách lược tập hợp lực lượng bên ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh nhân tố bên trong, coi nhân tố bên trong là nhân tố quyết định. Người nhắc nhở: “Ta có mạnh thì họ mới “đếm xỉa đến”. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”(4).
Vào thời điểm ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người đã nêu ra chủ trương đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ đồng tình của quốc tế: Cần phải “dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ”. Rõ ràng, đối tượng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chống Mỹ rất rộng rãi, nhưng Người vẫn luôn nhấn mạnh dựa vào sức mình là chính. Sức hậu thuẫn thế giới thường được tăng cường và phát triển tỷ lệ thuận với những thắng lợi của nhân dân ta là một minh chứng quan điểm mở rộng đoàn kết quốc tế trên cơ sở tự lập, tự cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
4. Sử dụng nghệ thuật “ngoại giao tâm công” để thu phục lòng người
“Ngoại giao tâm công” là một trong những đặc trưng nổi bật của ngoại giao truyền thống Việt Nam, được Bác Hồ kế thừa và phát triển một cách hết sức khéo léo, hiệu quả. “Ngoại giao tâm công” dựa trên cơ sở chủ nghĩa nhân văn, tìm ra những điểm tương đồng để thức tỉnh và khích lệ sự ủng hộ quốc tế, phân biệt rõ bạn-thù, phân biệt dân tộc với kẻ phản động trong Chính phủ để cô lập kẻ thù gây chiến nhằm tập hợp lực lượng rộng rãi trên thế giới. “Ngoại giao tâm công” vừa được sử dụng đối với kẻ thù, vừa được sử dụng với bạn bè. Người rất thành công trong nghệ thuật ngoại giao này là nhờ sự am hiểu sâu rộng đặc tính văn hóa của các dân tộc trên thế giới và tìm thấy những điểm tương đồng trong quan niệm giá trị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác. Trong quan hệ với Pháp, Người khơi dậy lòng tự hào của nhân dân Pháp để nhân dân Pháp phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chính người Pháp đã thừa nhận: Hồ Chí Minh đã đánh chìm chủ nghĩa thực dân Pháp mà vẫn giữ được tình hữu nghị với nhân dân Pháp.
Trong thư gửi tướng Leclerc-người được cử sang điều tra tình hình Việt Nam đầu năm 1947, Người viết: “Ngài là một đại quan nhân và một nhà ái quốc... Một nhà ái quốc trọng những người ái quốc khác. Một người yêu quê hương mình, trọng quê hương kẻ khác... Giá thử ngài đánh được chúng tôi đi chăng nữa-đấy là một điều viển vông, vì nếu ngài mạnh về vật chất thì chúng tôi đây, mạnh về tinh thần, với một ý chí cương quyết chiến đấu cho tự do của chúng tôi-thì những thắng lợi tạm thời kia chẳng những không tăng thêm mà lại còn làm tổn hại đến uy danh quân nhân và tư cách ái quốc của ngài”(5).
Với nhân dân Mỹ, trong “Điện gửi các bạn người Mỹ nhân dịp năm mới 1968”, Người nêu rõ: “Các bạn đều biết, không hề có người Việt Nam nào đến khuấy rối ở nước Mỹ. Vậy mà có nửa triệu quân Mỹ đến miền Nam Việt Nam, cùng với hơn 70 vạn quân ngụy và quân chư hầu, hằng ngày bắn giết người Việt Nam, đốt phá thành phố và xóm làng Việt Nam... Hàng chục vạn thanh niên Mỹ phải chết và bị thương vô ích trên chiến trường Việt Nam. Chính phủ Mỹ xài phí về chiến tranh ở Việt Nam mỗi năm hàng chục tỷ đô-la tiền mồ hôi, nước mắt của nhân dân Mỹ... Các bạn ra sức đấu tranh đòi Chính phủ Mỹ phải chấm dứt xâm lược Việt Nam, vừa bảo vệ chính nghĩa, vừa ủng hộ chúng tôi”(6).
Những lời nói đó đã chạm vào trái tim của những con người lương thiện, yêu chuộng hòa bình, biến lương tri của họ thành sức mạnh chống chiến tranh, ủng hộ chính nghĩa của Việt Nam.
Đội ngũ cán bộ ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh cần tiếp tục nghiên cứu tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta để kế thừa và phát triển, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, bảo vệ lợi ích chính đáng của Việt Nam trong thời đại mới.
-------
(1) "Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc và con người" (Phạm Hồng Chương)
(2) Trả lời phỏng vấn nhà báo Burchett, ngày 25-4-1964 (Báo Nhân Dân, ngày 25-4-1964)
(3) "Chủ tịch Hồ Chí Minh-trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại" (Nguyễn Phúc Luân)
(4) "Chủ tịch Hồ Chí Minh-trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại" (Nguyễn Phúc Luân)
(5) "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 5, tr.5
(6) Báo Nhân Dân, ngày 31-12-1967
NGUYỄN VINH QUANG, Cố vấn cao cấp Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và Phát triển quan hệ quốc tế, nguyên Vụ trưởng, Ban Đối ngoại Trung ương Đảng
Bài viết đăng trên Báo điện tử Quân đội Nhân dân. Được sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang, CSSD xin đăng lại.
Xem thêm
|
Nguyễn Vinh Quang [1]
Đại hội lần thứ VIII Đảng Lao động Triều Tiên tiến hành từ ngày 5 đến ngày 11/1/2021 tại Thủ đô Bình Nhưỡng với sự tham gia của 5.000 đại biểu, trong đó có 250 ủy viên trung ương đảng, 4.750 đại biểu các cấp và 2.000 đại biểu dự thính. Đại hội nghe báo cáo tổng kết của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII do nhà lãnh đạo Kim Jong-un, với danh nghĩa Chủ tịch Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tich Quốc vụ CHDCND Triều Tiên, Tư lệnh tối cao lực lượng vũ trang trình bày. Thời gian báo cáo kéo dài 9 tiếng.
Nhìn lại 5 năm qua một cách cầu thị
Đại hội VIII diễn ra đúng chu kỳ 5 năm sau Đại hội VII (2016). Đây là Đại hội thứ hai kể từ khi ông Kim Jong-un trở thành nhà lãnh đạo tối cao của CHDCND Triều Tiên. 5 năm qua tình hình thế giới diễn biến phức tạp và Triều Tiên phải đối mặt với muôn vàn khó khăn bởi đại dịch, thiên tai và sự bao vây cấm vận bởi lệnh trừng phạt của Liên hợp quốc và các biện pháp trừng phạt khác của Mỹ. 5 năm qua cũng là 5 năm có những biến chuyển mang tính đột phá trong quan hệ hai miền Triều Tiên và quan hệ Mỹ-Triều, đặc biệt là từ năm 2018, với mục tiêu mà cả thế giới hy vọng là phi hạt nhân hóa, dỡ bỏ trừng phạt, đi đến một bán đảo Triều Tiên hoà bình, ổn định.
Thế nhưng những nỗ lực của các bên liên quan đã chưa đem lại một kết quả cụ thể nào đáng kể. Phía Triều Tiên trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn vẫn tiến hành thành công các cuộc thử vũ khí mới. Quan hệ hai miền Triều Tiên vẫn có những lúc căng thẳng đến nghẹt thở. Các cuộc đàm phán cấp làm việc Mỹ- Triều đều thất bại. Lệnh trừng phạt vẫn không hề được nới lỏng.
Đại hội lần này của Đảng Lao động Triều Tiên đã nhìn lại những thành tựu và những bất cập 5 năm qua kể từ Đại hội VII (năm 2016). Báo cáo tổng kết cho rằng, 5 năm qua, Triều Tiên đã tiến hành cuộc đấu tranh ngoan cường biến mọi trở ngại thành thắng lợi to lớn, đánh dấu “sự mở đầu cho thời đại phát triển mới”, thời đại “Nước ta trên hết”[2]. Về kinh tế, tuy chưa đạt được mục tiêu chiến lược như dự định nhưng đã tạo dựng được cơ sở để tự lực thúc đẩy phát triển kinh tế trong tương lai. Đó là bảo vệ được cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa kiểu Triều Tiên trong điều kiện bị bao vây cấm vận và thiên tai nghiêm trọng. Về quốc phòng, đã “củng cố sức mạnh răn đe hạt nhân, phòng thủ đất nước”. Báo cáo cho rằng, “Xuất phát từ tính đặc thù của cách mạng Triều Tiên là đối phó với thế lực xâm lược xuyên thế kỷ nhằm vào Triều Tiên cũng như đặc điểm địa chính trị của đất nước, đòi hỏi phải xây dựng sức mạnh hạt nhân”. Báo cáo cũng cho biết quá trình lịch sử hoàn thành mục tiêu hiện đại hóa vũ khí hạt nhân để có được năng lực hạt nhân hoàn toàn mới. Ngoài công nghệ hạt nhân, Báo cáo đã đề cập đến những thành tựu mới tăng cường sức mạnh quân đội như đầu đạn bay siêu thanh áp dụng cho tên lửa đạn đạo, vệ tinh do thám quân sự, các dự án nghiên cứu thiết kế tàu ngầm hạt nhân mới, v.v...
Về đối ngoại, Báo cáo cho rằng thời gian qua Triều Tiên đã tích cực triển khai các hoạt động nâng cao uy tín và sự tôn nghiêm của quốc gia. “Trong tình hình xấu bị Mỹ và các thế lực theo đuôi bao vây phong tỏa nghiêm ngặt, Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên đã kiên quyết chống lại, đã chứng minh cho thế giới thấy rằng không ai có thể xâm phạm chủ quyền quốc gia” và “không tôn trọng chủ quyền thì không thể cải thiện quan hệ với Triều Tiên”. “5 năm qua Triều Tiên đã mạnh dạn đổi mới đường lối, sử dụng chiến lược mang tính tiến công, hình thành làn gió hoà bình, tạo không khí đối thoại được cộng đồng quốc tế công nhận, đồng thời linh hoạt tổ chức các hoạt động đối ngoại nâng cao địa vị quốc tế”. Báo cáo nhấn mạnh những bước cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Cu-ba, Việt Nam, từ đó tăng cường hơn sự đoàn kết ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Điều đáng chú ý là, nhà lãnh đạo Kim Jong-un đã rất thẳng thắn thừa nhận kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia 5 năm qua đã kết thúc, song nhiều mục tiêu vẫn chưa hoàn thành, cho rằng tự mình phải rút ra “bài học xương máu”. Ông đã phân tích khá kỹ tình hình xây dựng kinh tế, văn hoá, quốc phòng, quản lý xã hội, công tác đoàn thể v.v... Đặc biệt tình hình phức tạp trong nước và quốc tế khiến Triều Tiên phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng ngoài dự kiến. Ông thừa nhận một số công tác của Đảng chưa mang lại sự cải thiện, mục tiêu tăng trưởng kinh tế chưa hoàn thành, việc cải thiện dân sinh chưa có kết quả rõ rệt, đồng thời ông cũng chỉ ra một cách cụ thể những yếu kém, những bất cập tiềm ẩn trong các đơn vị, các ngành và những nguyên nhân của nó. Ông nhấn mạnh phải tìm ra nguyên nhân chủ quan, nếu bỏ qua thì sẽ trở thành những trở ngại lớn hơn.
Kế hoạch phát triển 5 năm tới
Báo cáo đã trình bày chiến lược phát triển kinh tế 5 năm tới với nhiệm vụ trọng tâm là coi công nghiệp luyện kim và công nghiệp hóa chất là then chốt để tập trung đầu tư; thực hiện bình thường hóa các ngành sản xuất kinh tế quốc dân; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành nông nghiệp; bảo đảm đầy đủ nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp nhẹ, tăng mạnh sản xuất hàng tiêu dùng đại chúng. Cốt lõi và chủ đề cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế 5 năm tới của Triều Tiên vẫn là “tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp”. Báo cáo nhấn mạnh, “Tính đến năng lực thực tế, kế hoạch 5 năm mới đã phản ánh yêu cầu hoàn thiện cơ cấu của nền kinh tế quốc gia tự lập, giảm bớt mức độ phụ thuộc nhập khẩu, ổn định cuộc sống nhân dân”. Một số chỉ tiêu cụ thể được nêu ra trong 5 năm tới như: đầu tư xây dựng 50.000 căn hộ ở Bình Nhưỡng, mỗi năm xây 10.000 căn hộ, cơ bản giải quyết vấn đề ở cho cư dân Thủ đô; xây 25.000 căn hộ cho công nhân tại các cơ sở hàng đầu sản xuất, khai thác; ngành công nghiệp vật liệu xây dựng phải hoàn thành nhiệm vụ cơ bản 8 triệu tấn xi-măng v.v...
Nhà lãnh đạo Kim Jong-un đã trình bày lập trường về quốc phòng của Triều Tiên là tiếp tục tăng cường sự đảm bảo vững chắc cơ sở sống còn của đất nước, duy trì sự tôn nghiêm, an toàn và hoà bình của đất nước và của nhân dân, cho rằng Triều Tiên đã nỗ lực và kiềm chế tối đa một cách thiện chí nhằm đảm bảo hoà bình an ninh cho bán đảo Triều Tiên và thế giới, nhưng chính sách thù địch của Mỹ không hề giảm mà còn tăng thêm. Ông nhấn mạnh: “Nhìn thấy kẻ thù ngày càng tăng cường vũ khí nhằm vào đất nước mình mà không nỗ lực tăng cường sức mạnh bản thân, bình chân như vại, thì đó là hành động vô cùng nguy hiểm và quá ngu xuẩn”.
Về vấn đề vũ khí hạt nhân, Triều Tiên đã đặt ra mục tiêu mở rộng kho vũ khí hạt nhân, nhưng tuyên bố “Nếu thế lực thù địch của Triều Tiên không sử dụng vũ khí hạt nhân thì Triều Tiên sẽ không lạm dụng vũ khí hạt nhân”. Trước mắt là vẫn phải coi trọng công nghệ hạt nhân hơn nữa, phát triển vũ khí hạt nhân loại nhỏ và vũ khí hạt nhân chiến thuật gọn nhẹ hơn nữa, đồng thời nâng cao độ chính xác tiêu diệt đối tượng chiến lược trong phạm vi 15.000 km, nâng cao năng lực đánh đòn hạt nhân phủ đầu, trả đũa. Nhiệm vụ trong tương lai gần là ứng dụng sản xuất đầu đạn bay siêu thanh, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển tên lửa đạn đạo xuyên lục địa động cơ nhiên liệu rắn phóng từ tàu ngầm và từ mặt đất; có tàu ngầm hạt nhân và vũ khí hạt nhân chiến lược phóng từ tàu ngầm, nâng cao năng lực tấn công hạt nhân tầm xa; trong thời gian ngắn vận dụng vệ tinh trinh sát quân sự, đảm bảo năng lực trinh sát thu thập tình báo, đấy nhanh công tác nghiên cứu khoa học chế tạo máy bay trinh sát không người lái tinh vi có tầm trinh sát 500 km.
Đại hội lần này cũng nhắc lại lập trường mang tính nguyên tắc trong quan hệ với Hàn Quốc và với Mỹ. Với Hàn Quốc, nhất trí ngừng các hành động thù địch chống đối lẫn nhau, nghiêm túc thực hiện tuyên bố chung đã ký năm 2018. Phía Triều Tiên cho rằng, có khôi phục và làm sống lại được quan hệ Bắc-Nam hay không là hoàn toàn phụ thuộc thái độ của Hàn Quốc; rằng, hợp tác chống dịch, hợp tác nhân đạo hay du lịch là những vấn đề không bản chất, nó chỉ gây ấn tượng “cải thiện” mà thôi. Ông Kim Jong-un chỉ trích Hàn Quốc đang không ngừng nhập khẩu trang thiết bị quân sự và không ngừng tập trận với Mỹ, vi phạm thỏa thuận Bắc-Nam về đảm bảo hoà bình ổn định quân sự trên bán đảo Triều Tiên. Ông nhấn mạnh một nguyên tắc cứng rắn đối với Mỹ là phải nhất quán kiên trì phương thức “lấy mạnh đáp lại mạnh, lấy thiện chí đáp lại thiện chí”. Ông cho rằng “chướng ngại vật lớn nhất của phát triển cách mạng là Mỹ”. “Dù ai cầm quyền ở Mỹ, bản chất chính sách thù địch (của Mỹ) đối với Triều Tiên vẫn không thay đổi, công tác đối ngoại phải xây dựng chiến lược và có sách lược đối với Mỹ”.
Ngoài ra, trong chính sách đối ngoại, Triều Tiên nhấn mạnh chủ trương mở rộng và phát triển quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, tăng cường đoàn kết hợp tác chính đảng cách mạng theo hướng tự chủ nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đối ngoại của đất nước.
Báo cáo tổng kết của Trung ương Đảng Lao động Triều Tiên khóa VII cũng dành một phần quan trọng phân tích về vai trò của Đảng và công tác xây dựng Đảng trong hoàn cảnh mới. Về mặt tổ chức, Đại hội lần này đã khôi phục Ban Bí thư Trung ương Đảng và chức vụ Tổng Bí thư, ông Kim Jong-un được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng[3].
Tổng quan về chiến lược
Như vậy, qua Đại hội lần này có thể thấy phương hướng tổng thể của kế hoạch 5 năm mới của Triều Tiên là tập trung sức lực phát triển kinh tế, kích hoạt toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sở vững chắc cho cải thiện đời sống nhân dân. Mục tiêu trọng điểm của kế hoạch vẫn là tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp, đồng thời thúc đấy hoạt động kinh tế đối ngoại nhằm bổ sung và tăng cường cho phát triển của nền kinh tế lấy tự lực canh sinh làm cơ sở. Kế hoạch phát triển này cho thấy Triều Tiên nhận thức được tình trạng bị bao vây cấm vận có khả năng còn lâu dài, dù khó khăn đến mấy cũng quyết tâm duy trì sự sống còn và tiếp tục phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân. Tăng cường khả năng răn đe hạt nhân, xây dựng lực lượng quân sự không phải là trọng tâm, nhưng không thể thiếu vì đó vừa tăng cường năng lực tự vệ vừa là sách lược của Triều Tiên nhằm tạo không gian đối thoại, giải quyết vấn đề.
Vai trò của Đảng và công tác xây dựng đảng được Ban Chấp hành Trung ương đứng đầu là nhà lãnh đạo Kim Jong-un coi trọng hơn trước đây và có nhiều đổi mới. Nếu như Đại hội VII, Đại hội đầu tiên dưới thời nhà lãnh đạo Kim Jong-un diễn ra cách Đại hội trước đó 36 năm thì Đại hội này được tổ chức cách Đại hội trước đúng 5 năm theo quy định của Điều lệ Đảng; Ban Bí thư và chức vụ Tổng Bí thư được khôi phục; Báo cáo tổng kết mạnh dạn nhìn thẳng vào những yếu kém và phân tích nguyên nhân một cách cầu thị v.v... Tất cả những chi tiết này cho thấy Đảng Lao động Triều Tiên đang từng bước đổi mới, vai trò của Đảng được nhấn mạnh hơn, đưa Đảng vào quỹ đạo hoạt động bình thường như các chính đảng khác trên thế giới.
Về chính sách đối ngoại, mặc dù chưa có gì là đột phá, nhưng những tín hiệu phát ra vào thời điểm này có ý nghĩa quan trọng. Đó là lúc nước Mỹ chuyển giao quyền lực, chính quyền của Tổng thống mới Joe Biden chưa định hình chiến lược ngoại giao, trong đó có chính sách Triều Tiên. Những tín hiệu này có thể có tác động nhất định đến chính sách mới của Mỹ. Những nỗ lực phi hạt nhân hóa, cải thiện quan hệ Mỹ-Triều dù bị bế tắc trong cuối nhiệm kỳ của chính quyền Donald Trump nhưng chưa phải đã đi đến tuyệt vọng, nó cũng có thể được kích hoạt trở lại nếu như mỗi bên có thêm một chút thiện chí. Người ta vẫn hy vọng điều này sẽ diễn ra vì đó là lợi ích của cả Mỹ và Triều Tiên, của cả khu vực và cả thế giới. Nếu quan hệ Mỹ-Triều không được cải thiện, chắc chắn quan hệ liên Triều cũng gặp khó khăn và vấn đề bán đảo Triều Tiên không thể giải quyết./.
[1] Cố vấn cao cấp trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Phát triển Quan hệ Quốc tế; Nguyên Vụ trưởng Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương
[2] Còn gọi là “Chủ nghĩa ưu tiên nước ta” hay “Chủ nghĩa ưu tiên”.
[3] Năm 2011, khi Tổng Bí thư Kim Jong-il qua đời, Triều Tiên đã quyết định để ông giữ chức vụ “Tổng bí thư vĩnh viễn”. Ông Kim Jong-un lên thay thế với chức vụ Bí thư thứ nhất của Đảng. Đại hội đảng lần thứ VII năm 2016, chức vụ Bí thư thứ nhất bị bãi bỏ và thay bằng chức Chủ tịch Đảng. Lần này chức vụ Tổng Bí thứ lại được khôi phục.
Ghi chú: Bài viết đăng trên Tạp chí Đối ngoại số 131 (1+2/2021). Được sự đồng ý của Cố vấn cao cấp Nguyễn Vinh Quang, CSSD xin đăng lại bài viết.
Xem thêm
|