Giới thiệu sách
Hồi ký Hillary Clinton: Hard Choices - Những lựa chọn khó khăn
Giữa năm 2014, cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã xuất bản Hồi ký về 4 năm đảm nhiệm cương vị người đứng đầu ngành ngoại giao Hoa Kỳ. Đó là 4 năm khó khăn: Nước Mỹ vật lộn với khủng hoảng kinh tế và nỗ lực tái cấu trúc lại chính sách đối ngoại. Trong cương vị Ngoại trưởng, bà Clinton đã làm một cuộc hành trình đến thăm 112 nước và đi gần 1,6 triệu km nhằm triển khai chính sách đối ngoại.

Trong lời mở đầu, Bà Clinton viết rằng, “Tất cả chúng ta đều phải đối mặt với những sự lựa chọn khó khăn trong cuộc sống. Ta phải điều chỉnh sự cân bằng giữa yêu cầu của công việc và gia đình; chăm sóc một đứa con ốm yếu hoặc bố mẹ già; tìm cách kiếm tiền để đi học đại học; tìm kiếm một công việc tốt, và tìm cách tồn tại khi mất việc; nên kết hôn hay tiếp tục sống độc thân; làm sao để đem lại cho con cái những cơ hội mà chúng ước mơ và xứng đáng có được… Cuộc sống xoay quanh các chọn lựa đó. Các quyết định và cách xử lý chúng tạo nên con người của chúng ta. Với các nhà lãnh đạo quốc gia, điều đó có thể tạo nên sự khác biệt giữa chiến tranh và hòa bình, sự nghèo đói và thịnh vượng”.
Cũng như vậy, “duy trì sự an toàn, thịnh vượng và quyền lực của nước Mỹ đòi hỏi vô số sự lựa chọn, ảnh hưởng bởi sự thiếu thông tin và các khẳng định trái ngược nhau. Có lẽ ví dụ nổi tiếng nhất trong 4 năm làm Ngoại trưởng của tôi là quyết định của Tổng thống Obama về việc gửi một đội Đặc nhiệm Hải quân (Navy SEALs) vào Pakistan để tiêu diệt Osama bin Laden. Giữa các cố vấn cao cấp của Tổng thống có sự chia rẽ; thông tin tình báo có vẻ khả quan, nhưng không có gì chắc chắn. Khả năng thất bại là rất cao, nếu vậy ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, cuộc chiến với al-Qaeda và quan hệ với Pakistan là rất lớn. Trên hết, tính mạng của những người lính đặc nhiệm dũng cảm đó đang ngàn cân treo sợi tóc. Đó là quyết định dũng cảm nhất mà tôi từng thấy ở một nhà lãnh đạo”.
Cuốn sách này nói về những sự lựa chọn của Hillary Clinton khi làm Ngoại trưởng, cũng như của Tổng thống Obama và các nhà lãnh đạo khác trên thế giới. Một số chương nói về các sự kiện nổi bật; các chương khác đề cập đến những xu hướng sẽ định hình thế giới trong tương lai. Bà Clinton cho biết đã phân chia các chọn lựa và thử thách làm 3 loại: các vấn đề tồn đọng (2 cuộc chiến và khủng hoảng kinh tế toàn cầu…); các nguy cơ mới nổi và các sự kiện không lường trước được (bất ổn ở Trung Đông, căng thẳng ở vùng biển Thái Bình Dương hay các lỗ hổng an ninh mạng…); và các cơ hội được tạo ra bởi một thế giới càng ngày càng gắn kết, với tiềm năng tạo ra cơ sở cho sự thịnh vượng và vị thế lãnh đạo của nước Mỹ trong thế kỉ XXI.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ cho biết: “Tôi đã cố gắng định hướng lại chính sách đối ngoại của Mỹ xung quanh cái mà tôi gọi là “quyền lực khôn khéo”. Để thành công trong thế kỉ XXI, chúng ta phải kết hợp các công cụ truyền thống của chính sách đối ngoại (ngoại giao, viện trợ phát triển và lực lượng quân sự); đồng thời phải kích thích nguồn lực và ý tưởng của khu vực tư nhân, trao sức mạnh cho công dân để họ đối mặt với thử thách và quyết định tương lai của chính họ. Chúng ta phải tận dụng tất cả các thế mạnh của nước Mỹ để xây dựng một thế giới nhiều đối tác hơn đối thủ, nhiều trách nhiệm chung hơn xung đột, nhiều công việc tốt hơn sự nghèo đói, nhiều sự phát đạt hơn những tổn thương đến môi trường”.
Thế kỉ này bắt đầu với những thảm họa: cuộc tấn công 11 tháng 9; cuộc chiến chống khủng bố và cuộc khủng hoảng kinh tế 2008. Cuốn sách dày hơn 600 trang, tác giả muốn giúp mọi người biết được những mục tiêu của nước Mỹ trong những năm đầu của thế kỉ XXI, bên cạnh đó là cách chính quyền Obama đối mặt với những thử thách to lớn trong một thời kì đầy nguy cơ. Mục đích của tác giả là viết cho người Mỹ cũng như mọi người ở khắp nơi đang cố lí giải thế giới thay đổi cực kì nhanh chóng hiện nay; những người muốn tìm hiểu về sự hợp tác hay va chạm giữa các nước, các nhà lãnh đạo và ảnh hưởng của chúng đến cuộc sống của chúng ta: nền kinh tế sụp đổ của Athens, Hy Lạp; cuộc cách mạng ở Cairo, Ai Cập; sự đối đầu căng thẳng về ngoại giao ở St. Petersburg…
Dưới đây là các phần giới thiệu về 5 vấn đề mà người đọc Việt Nam có thể quan tâm hơn cả: (1) Cuộc tranh cử năm 2008 - từ đối thủ thành đối tác; (2) Châu Á - chiến lược xoay trục / tái cân bằng; (3) Mỹ-Trung – cọ xát chiến lược; (4) Châu Âu – gia cố quan hệ với những người bạn lâu năm; (5) Nước Nga: quá trình tái cài đặt quan hệ dang dở.
Các vấn đề nêu trên được Lê Quang Hưng giới thiệu, phân theo 5 phần để bạn đọc tiện theo dõi. Liên quan đến Việt Nam và Biển Đông được đề cập nhiều ở phần 3 của tư liệu này.
Có những điều người ngoài cuộc đã biết tới. Cũng còn nhiều điều chỉ người trong cuộc mới biết và một phần của những điều chưa biết ấy được hé lộ trong cuốn hồi ký của một nhà ngoại giao - nhà chính trị hàng đầu của nước Mỹ. Đó là những điều liên quan đến ngày hôm qua, cũng có những điều liên quan đến hôm nay và ngày mai của các quan hệ của nước Mỹ với thế giới.
Phần 1
Cuộc tranh cử năm 2008 – từ đối thủ thành đối tác
Tại sao tôi lại phải nằm trên ghế sau của một chiếc xe bán tải màu xanh với các cửa sổ lắp kính màu? Đó là một câu hỏi hay. Tôi đang cố rời nhà ở Washington D.C mà không bị các phóng viên chầu chực bên ngoài bắt gặp. Đó là buổi tối ngày 5/6/2008, tôi có một cuộc gặp bí mật với Barack Obama - chỉ vài tháng trước, tôi không bao giờ nghĩ điều này có thể xảy ra. Tôi đã thua, ông ấy đã thắng. Tôi chưa có đủ thời gian để chấp nhận sự thật đó. Cuộc chạy đua cho vị trí ứng cử viên Tổng thống này mang tính lịch sử vì màu da của ông ấy và giới tính của tôi; đó là một cuộc đua căng thẳng, kéo dài và sát nút. Tôi đã rất mệt mỏi và thất vọng. Tôi đã cố gắng hết sức cho tới giây phút cuối cùng, nhưng Barack đã thắng và bây giờ là lúc phải ủng hộ ông ấy. Những người Mỹ thất nghiệp và không được chăm sóc y tế, không có tiền đổ xăng, mua thức ăn hay đi học đại học, những người cảm thấy vô hình trước mắt chính phủ trong vòng 7 năm qua - họ là mục tiêu để tôi ra tranh cử - bây giờ phụ thuộc vào việc Obama có trở thành Tổng thống thứ 47 của nước Mỹ hay không. Điều này không hề dễ dàng đối với tôi, các nhân viên và người ủng hộ. Thật ra thì nó cũng làm cho lực lượng của Barack thấy khó xử. Chúng tôi đã dè chừng lẫn nhau; đã có những cuộc tranh luận gay gắt và những cảm xúc tổn thương của cả 2 bên; tôi đã không từ bỏ cho đến khi lá phiếu cuối cùng được kiểm, mặc kệ những áp lực từ phía bên ấy.
Barack và tôi đã nói chuyện vào buổi khuya 2 ngày trước, sau khi Montana và Nam Dakota hoàn tất việc kiểm phiếu. Barack nói: “Hãy cùng ngồi xuống nói chuyện lúc nào bà cảm thấy thoải mái”. Ngày hôm sau chúng tôi chạm trán ở một hội nghị do Ủy ban Mỹ - Israel tổ chức tại Washington. Mặc dù có một chút nghi ngại, những các trợ lý thân cận của chúng tôi đã có cơ hội để bàn luận về các chi tiết của một buổi gặp mặt. Về phía tôi là tham mưu trưởng Huma Abedin - một người phụ nữ duyên dáng, giỏi giang và năng động, đã làm việc cho tôi từ khi còn ở Nhà Trắng. Bên phía Obama đó là Reggie Love - cựu cầu thủ bóng rổ của Đại học Duke, luôn bên cạnh Obama như hình với bóng. Huma và Reggie đã giữ một đường dây nóng kể cả trong những ngày căng thẳng nhất của chiến dịch tranh cử do Barack hoặc tôi luôn gọi điện để chúc mừng hay chia buồn sau các cuộc kiểm phiếu bang bất kể người thắng là ai. Các cuộc gọi thường có không khí thân thiện và chia sẻ do ít nhất luôn có một người vui. Nhưng có một số cuộc chỉ để cho có; huấn luyện viên không phải trận nào cũng ôm cầu thủ của mình. Chúng tôi cần một nơi kín đáo với giới truyền thông để gặp mặt và nói chuyện, do vậy tôi đã gọi cho một người bạn tốt, Thượng nghị sĩ bang California Dianne Feinstein để xin phép sử dụng ngôi nhà của chị ấy ở Washington. Tôi đã đến đó vài lần và thấy nó rất phù hợp để chúng tôi đi tới mà không thu hút sự chú ý. Chị ấy đồng ý, và tôi trèo lên chiếc xe bán tải, đi ra đại lộ Massachusetts để đến nơi hẹn.
Tôi đến trước; khi Barack đến, chị Dianne mời mỗi người một ly rượu vang Chardonnay California, và để chúng tôi ngồi trước lò sưởi trong phòng khách, đối diện với nhau. Dù cho đã có sự đối đầu trong năm ngoái, chúng tôi đã phát triển một sự tôn trọng lẫn nhau. Tranh cử Tổng thống đòi hỏi rất nhiều về các mặt trí tuệ, thể lực cũng như cảm xúc. Dù cho có điên cuồng đến đâu thì đó vẫn là một biểu hiện rõ ràng của nền dân chủ nước Mỹ. Việc này giúp chúng tôi quý trọng lẫn nhau vì đã dấn thân vào “đấu trường”, theo lời của Theodore Roosevelt. Cho đến lúc đó tôi đã quen Barack được 4 năm, trong đó 2 năm chúng tôi liên tục tranh luận với nhau. Như nhiều người Mỹ khác, tôi đã bị ấn tượng bởi bài phát biểu của ông ấy ở Hội nghị toàn quốc của Đảng Dân chủ năm 2004 ở Boston. Đầu năm ấy, tôi đã tổ chức một buổi tiệc gây quỹ cho ông ấy ở Washington và tham gia một buổi khác ở Chicago. Trong văn phòng Thượng nghị sĩ của tôi, tôi vẫn giữ một bức ảnh của tôi và gia đình ông ấy chụp ở bữa tiệc tại Chicago. Chúng tôi đã làm việc cùng nhau về một số ưu tiên chung và đạo luật. Sau khi bão Katrina quét qua, Bill và tôi đã mời Barack cùng đi Houston với cựu Tổng thống George H.W.Bush và phu nhân Barbara để thăm những người dân phải sơ tán và làm việc với các quan chức phụ trách việc khắc phục thảm họa.
Chúng tôi cùng là những luật sư, khởi đầu với tư cách những nhà hoạt động vì công bằng xã hội. Khi khởi nghiệp tôi đã làm cho Quỹ Bảo vệ Trẻ em, đăng kí cho những cử tri nói tiếng Tây Ban Nha tại Texas và đại diện cho những người nghèo được nhận trợ cấp theo pháp luật. Barack là một nhà tổ chức cộng đồng ở phía Nam Chicago. Chúng tôi có những câu chuyện và trải nghiệm cá nhân khác nhau, nhưng chúng tôi có cùng quan điểm cổ điển rằng dịch vụ công ích là một việc cao quý, và chúng tôi tin tưởng sâu sắc vào bản chất sâu xa của Giấc mơ Mỹ: Không quan trọng bạn là ai hay bạn đến từ đâu, nếu bạn làm việc chăm chỉ và tuân theo các quy tắc, bạn sẽ có cơ hội để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho bản thân và gia đình. Nhưng các chiến dịch tranh cử cần làm nổi bật sự khác biệt. Dù chúng tôi có cùng quan điểm chung trên nhiều vấn đề, nhiều lí do và sự đối lập đã được khai thác. Tôi biết rằng một chiến dịch chính trị cao cấp không dành cho người yếu tim hay nhút nhát, nên đội ngũ của tôi và Barack đã có những thù hằn nhất định. Bây giờ là lúc thay đổi bầu không khí ấy. Chúng ta cần phải tiến vào Nhà Trắng; việc bước tiếp là rất quan trọng cho tôi và cho cả đất nước.
Chúng tôi nhìn nhau như hai thiếu niên ngượng ngùng trong buổi hẹn đầu tiên, và uống vài ngụm Chardonnay. Barack mở lời trước bằng cách khen ngợi chiến dịch của tôi, suýt nữa đã đánh bại ông ấy. Sau đó ông ấy nhờ tôi giúp đoàn kết nội bộ đảng, tiến tới việc chiến thắng trong cuộc tranh cử Tổng thống. Ông ấy muốn chúng tôi cùng xuất hiện trong thời gian tới, tăng cường sự đoàn kết và năng động cho Hội nghị toàn quốc của Đảng Dân chủ sắp tới ở Denver. Ông ấy cũng muốn cả Bill tham gia giúp đỡ nữa. Tôi đã đồng ý sẽ giúp ông ấy từ trước, nhưng tôi cũng phải nhớ lại một số giây phút khó chịu trong năm đó. Cả hai bên đều không thể kiểm soát được mọi thứ trong chiến dịch, đặc biệt là những người ủng hộ nhiệt thành nhất hay một cộng đồng blogger. Một số câu nói của cả hai người đã bị xuyên tạc và bóp méo, nhưng các cáo buộc về phân biệt chủng tộc nhằm vào Bill là rất không hay. Barack đã nói rõ rằng ông ấy và cả đội ngũ không hề tin vào các cáo buộc đó. Sự phân biệt giới tính nổi lên trong chiến dịch đã gây nhiều khó khăn, dù tôi biết nó bắt nguồn từ các yếu tố văn hóa và tâm lý về vai trò của phụ nữ trong xã hội. Về việc này, Barack đã trình bày rất xúc động về việc bà nội ông ấy gặp khó khăn trong kinh doanh cũng như niềm tự hào của ông ấy về Michelle, Malia, Sasha và việc họ xứng đáng nhận được các quyền lợi trong xã hội một cách đầy đủ và bình đẳng. Sự trung thực của cuộc đối thoại này đã củng cố thêm cho quyết tâm của tôi về việc ủng hộ Barack. Trong khi tôi thích được mời ông ấy ủng hộ mình trong cuộc tranh cử Tổng thống hơn, tôi biết rõ thành công của Barack là cách tốt nhất để triển khai những giá trị và các kế hoạch chính sách tiến bộ mà tôi hướng tới trong suốt cuộc đời. Khi ông ấy hỏi cần phải làm gì để thuyết phục những người ủng hộ tôi tham gia vào chiến dịch của ông ấy, tôi nói cần cho họ một thời gian nhất định, và một nỗ lực chân thành sẽ lay chuyển được phần lớn trong số họ. Cuối cùng thì ông ấy đang là người đứng mũi chịu sào của kế hoạch chung; nếu tôi có thể chuyển từ việc làm mọi thứ để đánh bại ông ấy sang việc giúp đỡ Barack được bầu làm Tổng thống, mọi người đều có thể làm vậy. Và thực ra thì hầu hết trong số họ đã làm như thế. Sau khoảng 1 tiếng rưỡi, chúng tôi đã nói hết những gì muốn nói. Sau đó Barack đã gửi email cho tôi về dự thảo tuyên bố liên minh sẽ được đội ngũ của ông ấy đưa ra, khẳng định đã có một “cuộc thảo luận tích cực” về “những gì phải làm để chiến thắng vào tháng 11”. Ông ấy cũng xin số của Bill để có thể liên lạc trực tiếp.
Ngày hôm sau 6/6, Bill và tôi đã có cuộc gặp mặt với đội ngũ tranh cử của mình trong ngôi nhà ở D.C. Hôm đấy trời rất nóng, và chúng tôi đã ôn lại những bước ngoặt không thể tin được trong quá trình chạy đua. Tôi được truyền rất nhiều cảm hứng từ đội ngũ tận tụy này. Một số người bạn đã làm việc với bọn tôi từ hồi còn ở Arkansas; với những bạn trẻ thì đây là cuộc chạy đua chính trị đầu tiên mà họ tham gia. Tôi không muốn họ cảm thấy chán nản vì thất bại hay từ bỏ sự nghiệp bầu cử chính trị và dịch vụ công ích, nên tôi đã bảo họ nên thấy tự hào về chiến dịch của chúng ta, và tiếp tục làm việc vì mục tiêu cao cả cũng như ứng cử viên của đảng. Tôi phải đứng ra làm gương, và từ đó tôi chắc chắn rằng mình sẽ ủng hộ Barack Obama 100%. Mặc dù đã thất bại nhưng mọi người đã có một khoảng thời gian vui vẻ. Người bạn thân Stephanie Tubbs Jones - Hạ nghị sĩ da màu dũng cảm đến từ bang Ohio, người đã chịu nhiều áp lực và luôn đứng cạnh tôi trong quá trình chạy đua - ngồi nghịch nước cạnh bể bơi và kể chuyện cười. Hai tháng sau bà ấy qua đời do chứng phình mạch máu não, đó là sự mất mát rất lớn đối với gia đình tôi. Tuy vậy trong ngày hôm ấy, chúng tôi vẫn là chị em tốt, hướng tới những ngày tươi sáng hơn.
Hôm sau, tôi quyết định thời gian và địa điểm cho buổi xuất hiện cuối cùng trước công chúng và bắt đầu viết bài phát biểu, một công việc rất phức tạp. Tôi phải cảm ơn những người ủng hộ, nhấn mạnh tầm quan trọng của lần đầu tiên một phụ nữ tham gia cuộc chạy đua làm ứng cử viên Tổng thống, và giới thiệu Obama sao cho có lợi trong cuộc bầu cử sắp tới. Đó là một dung lượng rất lớn cho một bài phát biểu, và tôi không có nhiều thời gian. Tôi nhớ lại những cuộc chạy đua đầy thù hận kéo dài cho đến tận Hội nghị toàn quốc, đặc biệt là sự thất bại của Ted Kennedy trước Tổng thống Carter vào năm 1980, nhưng tôi sẽ không để lịch sử đó lặp lại. Điều đó không có lợi cho đảng và đất nước, nên tôi sẽ công khai tuyên bố ủng hộ Obama tranh cử Tổng thống. Tôi muốn có sự cân bằng giữa việc tôn trọng sự ủng hộ của mọi người và hướng tới tương lai. Tôi làm việc không ngừng nghỉ với các cố vấn và cây bút hỗ trợ để tìm giọng điệu và ngôn ngữ hợp lý. Jim Kennedy - một người bạn cũ với tài ngôn ngữ khơi gợi đã thức dậy lúc nửa đêm để nghĩ về 18 triệu người đã bỏ phiếu ủng hộ tôi và phá hủy cái rào cản vô hình đối với phụ nữ trong lĩnh vực chính trị. Hình ảnh đó đã cho tôi một cơ sở; tôi không muốn lặp lại những hình tượng tiêu chuẩn, việc giới thiệu này cần những lời lẽ của chính tôi, một lý lẽ cá nhân đầy thuyết phục về việc ủng hộ Barack. Tôi thức đến gần sáng để làm việc với Bill và hàng loạt bản nháp này đến bản nháp khác.
Tôi đã phát biểu trước công chúng vào thứ 7, ngày 7/6 tại Bảo tàng Xây dựng Quốc gia, Washington. Chúng tôi đã gặp khó khăn trong việc tìm kiếm địa điểm có thể chứa được đủ số lượng người ủng hộ và báo chí. Tôi thấy nhẹ nhõm khi chúng tôi thuê được Tòa nhà Hưu trí (Pension Building) với những hàng cột và trần nhà cao vút. Đây là một tượng đài của tinh thần trách nhiệm Mỹ, từng được dùng để chăm sóc cho cựu chiến binh, góa phụ và trẻ mồ côi thời Nội chiến. Bill, Chelsea và mẹ tôi Dorothy Rodham - năm ấy 89 tuổi - cùng nhau bước qua đám đông và tiến tới lễ đài. Có người bắt đầu khóc từ khi tôi còn chưa bắt đầu nói. Không khí có vẻ hơi giống một đám viếng, có cả nỗi buồn, sự giận dữ xen lẫn niềm tự hào và tình yêu. Có một phụ nữ đeo một cái huy hiệu to với dòng chữ: “Ủng hộ Hillary làm Giáo hoàng!”. Điều này gần như không thể xảy ra, nhưng tôi cảm thấy rất xúc động vì tình cảm của bà ấy. Viết bài phát biểu này đã khó rồi, thế mà trình bày nó còn khó hơn. Tôi cảm thấy mình đã làm hàng triệu người thất vọng, đặc biệt là những người phụ nữ và thiếu nữ đã đặt trọn niềm tin vào tôi. Tôi bắt đầu với việc cảm ơn tất cả mọi người đã tham gia chiến dịch chạy đua của tôi; tôi khẳng định niềm tin vào dịch vụ công ích và không bao giờ từ bỏ việc “giúp đỡ mọi người xử lí các vấn đề và đạt được giấc mơ của họ”. Tôi có một phần cảm ơn đặc biệt dành cho những người phụ nữ ở thế hệ của mẹ tôi - những người sinh ra từ khi phụ nữ còn chưa có quyền bầu cử, nhưng nay đã được chứng kiến chiến dịch tranh cử ứng viên Tổng thống của tôi. Một trong số họ là bà Florence Steen, 87 tuổi đến từ bang Nam Dakota; bà ấy đã đòi con gái phải mang hòm phiếu lưu động đến bên giường bệnh để bỏ phiếu cho tôi. Bà ấy đã qua đời trước khi kiểm phiếu, do vậy theo luật của bang thì lá phiếu ấy không hợp lệ. Tuy nhiên con gái bà ấy đã chia sẻ với một phóng viên: “Bố tôi là một người Mỹ cổ điển và bảo thủ, và ông ấy khá bực mình khi biết tin lá phiếu của mẹ tôi không được tính. Ông ấy đã không đi bỏ phiếu trong gần 20 năm, tuy nhiên ông ấy đã bỏ phiếu thay cho mẹ tôi.” Trách nhiệm đem lại hàng triệu hi vọng và ước mơ của người Mỹ là rất nặng nề, và tôi đã không bao giờ quên chiến dịch này là dành cho họ nhiều hơn dành cho bản thân tôi.
Tôi đề cập ngay đến sự thất vọng của những người ủng hộ: “Dù chúng ta không thể đập vỡ cái rào cản vô hình cuối cùng ấy, nhờ các bạn mà nó đã có 18 triệu vết nứt. Và ánh sáng đã chiếu xuyên qua nó, đem lại biết bao triển vọng cho lần cố gắng tiếp theo. Đó là quá trình lịch sử tất yếu của nước Mỹ. Các bạn sẽ luôn thấy tôi ở tiền tuyến của nền dân chủ, chiến đấu vì tương lai của chúng ta.” Sau đó tôi nói thêm: “Để đạt được các mục tiêu cao nhất, chúng ta phải đem mọi năng lượng, niềm đam mê và sức mạnh để giúp Barack Obama trở thành Tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ.” Tôi đã học được nhiều điều từ các thất bại. Cho tới năm 2008, tôi luôn giành chiến thắng trong các cuộc chay đua bầu cử: chiến dịch của chồng tôi ở Arkansas và cuộc chạy đua tới chức Tổng thống; và hai cuộc tranh cử chức Thượng nghị sĩ vào năm 2000 và 2006. Đêm ở Iowa khiến tôi rất đau đớn khi phải đứng thứ 3. Sau khi tôi tới New Hampshire, tiếng nói và nghị lực đã trở lại với tôi. Tinh thần lên cao, quyết tâm được củng cố bởi những người Mỹ tôi gặp trên đường. Tôi dành chiến thắng ở bang Ohio cho người dân khắp nước Mỹ, “những người bị bỏ qua nhưng không bao giờ đầu hàng, những người đã vấp ngã nhưng lại đứng lên ngay lập tức, những người chăm chỉ và không bao giờ bỏ cuộc.” Những câu chuyện được nghe đã làm tôi vững tin vào tương lai hứa hẹn của đất nước, và nỗ lực cần có để chia sẻ tương lai ấy với tất cả mọi người. Chiến dịch này tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc, tuy vậy nó đã đem lại một sự lựa chọn thật sự về tương lai của đất nước cho các cử tri. Một điểm tích cực đến từ thất bại này là tôi không còn quá quan tâm về những gì các nhà phê bình nói nữa; tôi vẫn coi trọng những lời chỉ trích nhưng không để chúng ảnh hưởng đến suy nghĩ của mình. Tôi cảm thấy tự do đến mức có thể xõa tóc thật sự. Trong một lần phỏng vấn khi đang đi thăm Ấn Độ, phóng viên Jill Dougherty của CNN, cho tôi biết rằng giới truyền thông đang phát cuồng lên với cách tôi xuất hiện ở thủ đô các nước sau những chuyến bay dài mà không trang điểm và chỉ đeo kính; cô ấy gọi nó là “Hillary tự nhiên”. Tôi bật cười: “Jill, giai đoạn này tôi cảm thấy rất thoải mái vì nếu tôi muốn đeo kính, tôi có thể đeo kính; nếu tôi muốn buộc tóc, tôi có thể buộc tóc.” Một số phóng viên đưa tin ở Bộ Ngoại giao đã bất ngờ khi tôi bỏ qua những luận điểm ngoại giao và nói thẳng những gì tôi nghĩ trong đầu, ví dụ như phê phán lãnh đạo Bắc Triều Tiên hoặc ép Pakistan phải tìm kiếm vị trí của Osama bin Laden. Giờ đây tôi không còn cần phải khép nép nữa. Việc thất bại cũng cho tôi cơ hội được nói chuyện với các lãnh đạo nước ngoài về việc chấp nhận những kết cục không có lợi và tiến lên vì lợi ích của quốc gia. Có nhiều nguyên thủ quốc gia tuyên bố ủng hộ nền dân chủ, nhưng rồi lại làm tất cả để đàn áp các cử tri loại họ khỏi quyền lực. Tôi thấy rằng tôi có thể đem lại một mô hình khác. Tất nhiên, tôi đã rất may mắn khi thua một ứng cử viên có quan điểm rất gần gũi với mình, và đã chịu đựng rất nhiều để tôi về với đội của ông ấy. Tuy vậy, việc chuyển từ những đối thủ đáng gờm thành những đối tác hiệu quả là một lý luận tuyệt vời cho nền dân chủ - điều tôi sẽ còn thấy nhiều lần nữa trên thế giới khi nhận một công việc mà tôi chưa từng nghĩ mình sẽ làm.
Ba tuần sau bài phát biểu ở tòa nhà Bảo tàng, tôi đi đến thị trấn Unity, New Hampshire. Thị trấn này được chọn không chỉ vì cái tên (“Unity” nghĩa là đoàn kết) mà còn vì tôi và Barack nhận được số phiếu giống hệt nhau, 107 phiếu. Chúng tôi gặp nhau ở Washington và đi bằng máy bay tranh cử của ông ấy. Khi hạ cánh, phải đi bằng xe bus khoảng 2 tiếng nữa mới đến thị trấn Unity. Tôi nhớ lại chuyến đi tuyệt vời trên chiếc xe bus riêng với Bill và gia đình Gore ngay sau Hội nghị toàn quốc của Đảng Dân chủ năm 1992 và cuốn sách nổi tiếng của Timothy Crouse về chiến dịch tranh cử năm 1972, “Các chàng trai trên xe bus” (The Boys on the Bus). Bây giờ tôi là một “cô gái” trên xe bus, và ứng cử viên không phải là tôi hay chồng tôi. Tôi hít một hơi sâu và bước lên xe. Barack và tôi bắt chuyện rất dễ dàng. Tôi chia sẻ một số kinh nghiệm nuôi con gái ở Nhà Trắng. Ông ấy và Michelle đã nghĩ đến cuộc sống của Malia và Sasha nếu giành chiến thắng. Trên một bãi cỏ rộng vào một ngày hè đẹp trời, cuộc mít tinh đã gửi đi một thông điệp rõ ràng: cuộc chạy đua đã qua, và bây giờ chúng tôi là một đội. Mọi người hô vang tên chúng tôi trên nền nhạc “Beautiful Day” của nhóm U2. Những chữ U-N-I-T-Y to được đặt phía sau đám đông, và trên sân khấu có băng rôn với dòng chữ “Đoàn kết để Thay đổi” (Unite for Change). Tôi phát biểu: “Hôm nay và mãi sau này, chúng ta sẽ cùng chung tay vì những lí tưởng, những giá trị mà chúng ta theo đuổi, và vì đất nước mà chúng ta yêu quý.” Sau khi tôi kết thúc, họ và cả Barack hô lên “Cảm ơn Hillary”. Ông ấy đùa rằng: “Các bạn đã nhìn trộm bài phát biểu của tôi và lấy đi câu đầu tiên.” Sau đó ông ấy chia sẻ một cách chân thành về cuộc đua với tôi. Bill và Barack đã có một cuộc thảo luận dài vài ngày trước, đồng ý bỏ qua các vấn đề trước đây và đồng ý cùng tham gia vào chiến dịch tranh cử Tổng thống.
Sự kiện lớn nhất của mùa hè là Hội nghị toàn quốc của Đảng Dân chủ, diễn ra tại Denver vào cuối tháng 8. Tôi đã dự tất cả các Hội nghị toàn quốc từ năm 1976, và tôi nhớ nhất các hội nghị năm 1992 ở New York và năm 1996 ở Chicago. Lần này Barack nhờ tôi có một bài phát biểu chính thức đề cử ông ấy, và tôi đồng ý. Khi đến lượt, Chelsea đứng lên giới thiệu tôi. Tôi cảm thấy rất tự hào và biết ơn vì con gái tôi đã làm việc rất chăm chỉ trong suốt cuộc chạy đua. Nó đã đi xuyên quốc gia một mình, nói chuyện với thanh niên và khuấy động không khí ở mọi đám đông mà nó gặp. Tôi thấy con mình đã trưởng thành khi nó đứng trước phòng hội nghị chật cứng người. Đến lượt tôi rồi; tôi được chào đón với một biển dòng chữ “Hillary” màu đỏ, trắng và xanh. Đây là một trong những bài phát biểu quan trọng nhất đối với tôi, trước một số lượng thính giả rất lớn và hàng triệu người khác theo dõi qua TV. Tôi phải thú nhận rằng mình rất lo lắng. Tôi hoàn thành bài nói chỉ vài phút trước hạn, và một trợ lý của tôi đã phải nhảy khỏi xe để đưa bản mềm cho người điều khiển màn hình lớn. Đội ngũ của Obama đòi được xem nó từ lâu, và một số cố vấn đã thấy lo ngại khi tôi không cho xem, sợ rằng tôi đang muốn giấu cái gì đó họ không muốn tôi nói. Nhưng thực ra tôi đã vắt óc suy nghĩ từng giây một để viết ra một bài phát biểu thật hay. Đây không phải bài phát biểu mà tôi muốn trình bày ở hội nghị này, nhưng nó rất quan trọng. “Dù bạn đã bầu cho tôi hay Barack, giờ là lúc để đảng ta đoàn kết với một mục tiêu chung. Chúng ta ở cùng một đội, và không ai có thể đứng ngoài lề được. Đây là một cuộc đấu tranh vì tương lai, và chúng ta phải cùng nhau giành thắng lợi. Barack Obama là ứng cử viên của tôi. Và ông ấy phải trở thành Tổng thống của chúng ta.” Sau đó Joe Biden đã gặp tôi bên ngoài phòng khách, và quỳ xuống hôn tay tôi. (Ai bảo sự ga-lăng đã tuyệt chủng!). Barack cũng gọi điện cảm ơn tôi từ Billings, Montana. Trước đó tôi đã gặp Michelle ở hậu trường của một sự kiện khác, và cô ấy rất biết ơn về những gì chúng tôi đã làm để giúp đỡ Barack. Tất nhiên Bill không phải là người hôn phối duy nhất trong cuộc chạy đua, và cả tôi và Barack đều biết gia đình phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất khi bạn bị tấn công. Nhưng Michelle và tôi đã cùng vượt qua thử thách chăm sóc gia đình trước con mắt của công chúng. Vài tháng sau, trong một bữa trưa thân mật ở phòng Bầu Dục vàng trên tầng 2 Nhà Trắng, chúng tôi đã nói chuyện về việc ổn định của gia đình Tổng thống và kế hoạch của cô ấy về việc chống béo phì trẻ em thông qua chế độ ăn uống và luyện tập phù hợp. Chúng tôi ngồi ở một chiếc bàn nhỏ hướng ra cửa sổ phía nam trên ban công Truman, nhìn ra đài tưởng niệm Washington. Đây là chuyến thăm Nhà Trắng đầu tiên của tôi từ khi rời đi vào ngày 20/1/2001. Tôi rất vui được gặp lại đội ngũ nhân viên phục vụ, những người làm cho các gia đình Tổng thống cảm thấy như ở nhà. Khi tôi trở thành Đệ nhất phu nhân vào năm 1993, những điều các phu nhân Jacqueline Kennedy, Bird Johnson, Betty Ford, Rosalynn Carter, Nancy Reagan và Barbara Bush chia sẻ có ý nghĩa rất lớn với tôi. Chỉ có một số ít người từng được sống trong Nhà Trắng, và tôi muốn giúp đỡ Michelle bằng bất kì cách nào có thể.
Tôi nghĩ bài phát biểu trên là việc duy nhất tôi phải làm ở hội nghị, tuy nhiên một nhóm ủng hộ nhiệt thành của tôi vẫn có ý định bầu cho tôi ở phiên họp cuối cùng. Đội ngũ của Obama đã hỏi liệu tôi có thể đến hội nghị và tuyên bố luôn rằng Barack Obama là ứng viên của đảng, bỏ qua phiên họp đó. Tôi đồng ý nhưng cũng hiểu tại sao nhiều người không muốn tôi làm điều đó. Họ muốn kết thúc những gì đã bắt đầu; họ muốn ghi vào lịch sử rằng một phụ nữ đã giành chiến thắng ở hơn 20 bang, có sự ủng hộ của gần 1900 đại cử tri - điều chưa từng có trong lịch sử. Họ tranh luận rằng nếu bỏ qua phiên họp cuối, nỗ lực của mọi người sẽ không bao giờ được công nhận. Tôi rất xúc động trước sự trung thành của họ, nhưng tôi nghĩ việc chứng tỏ sự đoàn kết là quan trọng hơn. Một số người cũng thất vọng vì Barack chọn Joe Biden làm ứng viên Phó tổng thống chứ không phải tôi. Nhưng tôi chưa bao giờ muốn làm Phó Tổng thống; tôi muốn trở lại Thượng viện và thúc đẩy việc cải cách hệ thống chăm sóc sức khỏe, tạo ra công ăn việc làm và các thử thách khác. Tôi thật tâm đồng ý với sự lựa chọn của Barack; Joe sẽ là một cộng sự đắc lực trong chiến dịch tranh cử cũng như công việc ở Nhà Trắng.
Sự xuất hiện của tôi được giữ bí mật, do đó các đại cử tri và phóng viên đã rất xôn xao khi tôi xuất hiện giữa hàng ngàn người ủng hộ, ngay trước khi bang New York tuyên bố ứng cử viên. Giữa bạn bè và đồng nghiệp, tôi tuyên bố: “Trong tinh thần đoàn kết, với tầm nhìn hướng tới tương lai, với niềm tin vào đảng và quốc gia, hãy cùng nhau tuyên bố ngay tại đây rằng Barack Obama là ứng cử viên của chúng ta và ông ấy sẽ là Tổng thống.” Chủ tich Hạ viện Nancy Pelosi hỏi mọi người rằng có ai phản đối ý kiến của tôi không; không có ai, và toàn bộ hội trường đã vỗ tay chấp thuận. Bầu không khí trở nên rất sống động, với sự kiện người Mỹ gốc Phi đầu tiên được đề cử là ứng viên Tổng thống của một đảng lớn. Trong tuần đó còn một bất ngờ lớn nữa. Sau hôm Barack phát biểu ở hội nghị, Thượng nghị sĩ John McCain - gần như chắc chắn sẽ là ứng viên của Đảng Cộng hòa - tuyên bố rằng ứng viên Phó tổng thống của ông ấy sẽ là Thống đốc Sarah Palin của bang Alaska. Câu hỏi “Đó là ai?” vang lên khắp nơi trên đất nước. Lúc đó bà ấy gần như không được ai biết tới, ngay cả những người cực kì đam mê chính trị. Đội ngũ của Obama nghi ngờ rằng sự đề cử Thống đốc Palin là nhằm thu hút những phụ nữ đã ủng hộ tôi hết mình. Họ lập tức đưa ra một tuyên bố chỉ trích và hi vọng rằng tôi cũng sẽ làm điều tương tự. Nhưng tôi không làm; tôi sẽ không tấn công bà Palin chỉ vì việc tìm kiếm sự ủng hộ từ những phụ nữ khác. Tôi cảm thấy điều đó không hợp với các quy tắc chính trị, và tôi nói với họ còn nhiều thời gian để đưa ra những chỉ trích khác. Vài giờ sau, đội ngũ của Obama thay đổi ý kiến và tuyên bố chúc mừng Thống đốc Palin.
Trong các tuần sau đó, Bill và tôi dự hơn 100 sự kiện và tiệc gây qũy, nói chuyện với những người ủng hộ và các cử tri chưa quyết định, thuyết phục họ bầu cho Barack và Joe. Vào sáng ngày bầu cử (4 tháng 11), chúng tôi đến một trường cấp 1 địa phương gần nhà ở Chappaqua, New York, để bỏ phiếu. Đó là kết thúc của một cuộc hành trình dài nhưng quá tuyệt vời. Đêm đó Bill dán mắt vào màn hình TV, làm những việc anh ấy luôn làm vào đêm bầu cử: phân tích tất cả những dữ liệu tìm được dựa vào các dự tính sơ bộ. Bây giờ chúng tôi không thể giúp được gì nữa, và tôi tìm những việc khác để làm cho đến khi có kết quả. Đó là một chiến thắng áp đảo, chứ không phải chờ đợi đến giây phút cuối cùng như các cuộc bầu cử năm 2000 và 2004. Huma gọi cho Reggie Love, và tôi chúc mừng Tổng thống mới trúng cử. (Đó là cách mà tôi nghĩ về, nói về ông ấy ngay sau khi cuộc bầu cử kết thúc, giống như khi nhậm chức xong ông ấy sẽ trở thành “Ngài Tổng thống”). Tôi rất vui, tự hào và cảm thấy nhẹ nhõm. Đó là lúc tôi có thể thở phào và trở về với cuộc sống và công việc như trước.
Năm ngày sau cuộc bầu cử là một buổi chiều Chủ nhật yên tĩnh - một cơ hội hoàn hảo để thư giãn. Không khí mùa thu thật trong lành, nên Bill và tôi đã đi bộ ven sông Mianus, một trong nhiều con đường gần hạt Westchester chúng tôi sống. Chúng tôi thường tìm cách thư giãn đầu óc bằng những chuyến đi bộ dài cùng nhau, bỏ qua mọi căng thẳng của cuộc sống hàng ngày. Cuộc đi bộ đó thật sự sảng khoái: chiến dịch bầu cử kết thúc, tôi có thể trở về Thượng viện. Tôi thích được đại diện cho người dân New York, và bây giờ tôi có một kế hoạch làm việc bao gồm nhiều điều mà tôi rất muốn thúc đẩy. Đầu tôi tràn đầy những ý tưởng, và tôi hi vọng có thể hiện thực hóa chúng nhờ vào mối quan hệ thân thiết với Tổng thống mới. Tôi không ngờ rằng mối quan hệ ấy sẽ trở nên gần gũi hơn nữa. Khi chúng tôi đang đi bộ, điện thoại của Bill đổ chuông. Anh ấy bắt máy và nhận ra tiếng của Tổng thống mới đắc cử; ông ấy muốn nói chuyện với cả hai vợ chồng chúng tôi. Bill nói rằng chúng tôi đang ở giữa thiên nhiên và sẽ gọi lại khi về đến nhà. Tại sao ông ấy lại gọi nhỉ? Có lẽ ông ấy muốn gợi ý về nội các chăng? Hay để tham khảo ý kiến về một thử thách lớn về mặt chính sách như khôi phục kinh tế hay cải cách hệ thống chăm sóc sức khỏe? Hoặc đơn giản ông ấy chỉ muốn chúng tôi giúp giải quyết sự bùng nổ các hoạt động về luật pháp trong mùa xuân? Nhớ lại những ngày bổ nhiệm bận rộn của mình, Bill nghĩ ông ấy muốn chúng tôi đề cử các thành viên cho chính quyền của ông ấy. Khi chúng tôi về đến nhà, dự đoán của Bill hóa ra chính xác - chỉ với anh ấy. Tổng thống mới muốn tham khảo ý của Bill về những thành viên tiềm năng cho ủy ban kinh tế mà ông ấy dự định thành lập để xử lý vấn đề khủng hoảng kinh tế của đất nước. Và ông ấy nói với Bill rằng muốn gặp tôi càng sớm càng tốt. Tôi cho rằng ông ấy muốn bàn luận chuyện hợp tác cho gói dự luật ở Thượng viện.
Nhưng tôi thấy tò mò, do đó tôi gọi cho một số nhân viên ở Thượng viện để hỏi ý kiến, trong đó có người phát ngôn của tôi Philippe Reines. Philippe rất nhiệt huyết, trung thành và khôn ngoan. Ông ấy thường đoán trước trước các hoạt động lớn ở Washington, và ông ấy luôn nói ra suy nghĩ thật của mình; lần này cũng vậy. Hai ngày trước Philippe đã nói với tôi về đủ loại tin đồn rằng tôi sẽ được đề cử vào vị trí nào, từ Bộ trưởng Quốc phòng cho đến Trưởng Bưu điện Hoa Kỳ. Ông ấy đoán rằng: “Chị sẽ được đề cử làm Ngoại trưởng.” “Thật buồn cười! Không có lí do nào để việc đó thành sự thật!” Đó không phải lần đầu tiên tôi nghĩ Philippe bị lú lẫn. Và thực sự thì tôi không muốn trở thành một thành viên trong nội các, tôi muốn về với Thượng viện và bang New York. Từ vụ 11 tháng 9 đến khủng hoảng kinh tế năm 2008, người New York đã trải qua 8 năm đầy khó khăn. Họ đã tin tưởng tôi từ năm 2000, và giờ đây họ cần một đại diện mạnh mẽ và quyết tâm ở Washington. Tôi muốn làm chủ chính mình, muốn tự đặt ra các kế hoạch và thời gian biểu; gia nhập nội các có nghĩa là đánh mất một số quyền như thế. Khi tôi gọi cho Philippe vào Chủ nhật, ông ấy cho biết rằng giới truyền thông đang bắt đầu suy đoán. Chương trình “Tuần này” của đài ABC nói về những tin đồn rằng Tổng thống mới đắc cử Obama đang nhắm tôi cho chức vụ Ngoại trưởng. Chương trình đó cho rằng Obama đang thích ý tưởng “đội đối thủ” cho nội các của mình, dựa trên cuốn sách lịch sử bán chạy vào năm 2005 của Doris Kearns Goodwin nói về quyết định bổ nhiệm William Henry Seward, Thượng nghị sĩ bang New York và ứng cử viên Tổng thống của Đảng Cộng hòa, làm Ngoại trưởng của Abraham Lincoln.
Tôi là một người hâm mộ ông Seward, do đó tôi thấy sự so sánh này rất thú vị. Ông ấy là một trong những con người xuất chúng của thời đại, một người ủng hộ cải cách dựa trên nguyên tắc, một người phê phán gay gắt chế độ nô lệ, Thống đốc và Thượng nghị sĩ bang New York, và Ngoại trưởng. Ông ấy cũng đã giúp Tổng thống Lincoln soạn thảo bản Tuyên bố Lễ Tạ ơn, biến ngày lễ đó thành ngày lễ toàn quốc. Một người đương thời miêu tả ông ấy như sau: “Không bao giờ vội vã, rất khôn khéo, thích nói chuyện vui, thích những thứ tốt đẹp và các món ăn ngon” - nghe có vẻ khá giống tôi. Seward là một Thượng nghị sĩ New York có danh tiếng khi quyết định ra tranh cử Tổng thống, và đối mặt với một chính trị gia linh hoạt, quyết đoán đến từ Illinois. Sự so sánh này cũng không hoàn hảo; nhà sử học Henry Adams thấy Seward như một người “không bao giờ hi vọng mọi người miêu tả tôi là một con vẹt thông minh.” Và tôi thấy hứng thú với việc người đã cố phá hỏng chiến dịch tranh cử của Seward là nhà báo Horace Greeley - người được dựng tượng gần nhà tôi ở Chappaqua. Seward cũng làm tôi ấn tượng bởi nhiều lí do khác ngoài những sự trùng hợp. Tôi đã đến thăm nhà ông ấy ở Auburn, New York - một trạm dừng của Đường sắt ngầm giải phóng các nô lệ từ miền Nam. Ngôi nhà chứa đầy các vật kỷ niệm về một sự nghiệp lừng lẫy và 14 tháng công du nước ngoài sau khi nhậm chức. Phòng trưng bày ấy có đồ lưu niệm của hầu hết các nhà lãnh đạo trên thế giới, đặc biệt là các nhà quân chủ, tặng cho một người công bộc trung thành của nền dân chủ. Dù đã đi khắp nơi trên thế giới, Seward vẫn rất quan tâm đến các cử tri của mình và họ cũng rất quý ông. Ông ấy đã nói rất hay về việc nước Mỹ có thể trở thành một quốc gia hùng mạnh; và ông ấy hành động hướng tới điều đó. Người trưởng tàu huyền thoại của Đường sắt ngầm, Harriet Tubman, sau này về sống tại một ngôi nhà được xây trên mảnh đất mua của Seward ở Auburn. Ông ấy có một tình bạn rất cảm động với Lincoln. Sau khi nhận thất bại trong cuộc chạy đua, Seward đã làm rất nhiều việc cho chiến dịch của Lincoln, đi tàu và nói chuyện ở khắp nơi, sau đó trở thành một trong những cố vấn thân cận nhất của Lincoln. Ông ấy đã gợi ý cho Tổng thống về đoạn cuối của bài phát biểu nhậm chức, nói đến “các mặt thiện của bản chất con người”. Ông ấy cũng bị ám sát cùng lúc với Tổng thống Lincoln nhưng may mắn thoát chết. Lincoln và Seward đã đi cùng nhau một đoạn đường dài, tình bạn và sự cần cù của họ đã giúp chính quyền miền Bắc chiến thắng. Sau khi Nội chiến kết thúc, công việc của Seward vẫn còn bề bộn. Vào năm 1867, ông ấy đã chỉ đạo việc mua vùng Alaska từ đế quốc Nga. Cái giá 7,2 triệu đôla khi đó được cho là quá lãng phí, đến mức mọi người gọi thỏa thuận đó là “Sự ngu ngốc của Seward” dù giờ đây chúng ta coi đó là một trong những thỏa thuận đất đai vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ (và cũng là một vụ trộm với giá 2 cent một acre/khoảng 4047m² đất). Ngay sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã có vài tháng vui vẻ ở Alaska vài tháng, hàng ngày đi bắt cá và rửa bát. Giờ đây, khi tên tuổi của tôi được nhắc đến nhiều với vị trí ở Bộ Ngoại giao, tôi tự hỏi có khi hồn ma của Seward đang bám theo tôi. Nhưng tôi cũng phải tự hỏi: Nếu Tổng thống yêu cầu tôi phục vụ, có phải là ngu ngốc nếu tôi rời bỏ Thượng viện và toàn bộ kế hoạch đối nội chỉ vì một nhiệm kì ngắn ngủi ở Bộ Ngoại giao?
Ngày hôm sau, ở buổi trao giải “Phụ nữ của năm” do báo Glamour tổ chức ở New York, một phóng viên đã hỏi tôi rằng liệu tôi có chấp nhận một vị trí trong chính quyền của Obama không. Tôi đã bày tỏ cảm giác của mình: “Tôi đang hạnh phúc khi đại diện cho bang New York ở Thượng nghị viện”. Điều đó là sự thật, tuy nhiên trên quan điểm hiện thực, tôi cũng biết rằng trong chính trị thì mọi thứ có thể xảy ra. Sáng thứ 5 (13/11), tôi và Huma bay đến Chicago một cách kín đáo để gặp ngài Tổng thống mới. Khi đến trụ sở tạm thời của họ, tôi được dẫn vào một căn phòng lát gỗ lớn, chỉ có vài cái ghế và một cái bàn gấp - nơi tôi sẽ gặp mặt Tổng thống một mình. Ông ấy trông có vẻ thư giãn và thoải mái hơn quãng thời gian vài tháng gần đây. Dù sẽ phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng nhất từ cuộc Đại suy thoái, ông ấy tỏ ra rất tự tin. Ông ấy đi thẳng vào mục tiêu chính: đề nghị tôi nhận chức Ngoại trưởng. Ông ấy đã xem xét vị trí ấy trong một thời gian, và tin rằng tôi là người tốt nhất và duy nhất có thể đảm nhiệm cương vị đó tại thời điểm nước Mỹ phải đối mặt với nhiều thách thức cả trong lẫn ngoài nước. Tôi đã rất sốc dù đã nghe nhiều lời thì thầm, tin đồn và câu hỏi trực tiếp. Chỉ vài tháng trước, Barack Obama và tôi vẫn còn đang cạnh tranh trong cuộc chạy đua ứng viên căng thẳng nhất trong lịch sử. Giờ đây ông ấy đang đề nghị tôi nhận vị trí quan trọng nhất của nội các, nhân vật xếp thứ 4 trong chính phủ Mỹ. Điều này giống hệt mùa cuối của loạt phim truyền hình “Khu phía Tây” (West Wing): trong phim đó người đắc cử Tổng thống đã mời đối thủ thất bại làm Ngoại trưởng; lúc đầu đối thủ từ chối nhưng Tổng thống mới không chấp nhận câu trả lời “không”. Trong thực tế, Tổng thống mới đắc cử Obama đã chuẩn bị những lí lẽ xác đáng: ông ấy phải tập trung hầu hết thời gian và tâm trí vào cuộc khủng hoảng kinh tế, do vậy cần một người có uy tín để đại diện cho ông ấy ở nước ngoài. Tôi lắng nghe rất cẩn thận, và nhẹ nhàng từ chối dù cảm thấy rất vinh dự. Tôi rất quan tâm đến chính sách đối ngoại; tôi tin rằng đó là yếu tố quyết định đến việc khôi phục vị thế quốc tế đã bị suy giảm của nước ta. Có hai cuộc chiến phải giải quyết, bên cạnh đó nhiều nguy cơ và cơ hội cũng nổi lên. Tuy vậy tôi cũng hứng thú với việc giải quyết tỉ lệ thất nghiệp cao, cải cách hệ thống chăm sóc sức khỏe lỗi thời và tạo ra nhiều cơ hội mới cho các gia đình Mỹ. Mọi người đang phải chịu khổ, họ cần một người đứng ra chiến đấu vì họ. Tôi sẽ phải đối mặt với tất cả các việc đó và nhiều hơn nữa ở Thượng nghị viện. Ngoài ra, vẫn còn nhiều nhà ngoại giao lão luyện có thể đảm nhiệm vị trí Ngoại trưởng. Tôi gợi ý: “Richard Holbrooke thì sao? Hay George Mitchell?”. Nhưng ông ấy không nhượng bộ, và tôi nói rằng tôi cần thời gian suy nghĩ thêm. Việc này đã choán hết tâm trí của tôi khi bay về New York.
Các suy đoán của báo chí đã rất dồn dập từ trước cuộc nói chuyện này. Hai ngày sau, tờ New York Times giật tít: “Cuộc gặp giữa Obama và Clinton gây xôn xao”; bài báo nhận định rằng khả năng tôi trở thành Ngoại trưởng có thể đem lại một “kết cục bất ngờ” cho “cuộc chạy đua đầy kịch tính giữa Obama và Clinton”. Tôi đã từ chối xác nhận lời đề nghị của Obama, nhưng vẫn suy nghĩ rất nhiều. Trong một tuần sau đó, tôi liên tục nói chuyện với gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Bill và Chelsea rất kiên nhẫn lắng nghe và yêu cầu tôi xem xét thật cẩn thận. Những người bạn của tôi thì chia thành hai nhóm: những người ủng hộ và những người hoài nghi. Tôi chỉ có vài ngày để suy nghĩ: vị trí ấy rất hấp dẫn, và tôi tự tin vào khả năng của mình. Tôi đã trải qua nhiều thử thách cùng nước Mỹ trên cương vị Đệ nhất phu nhân và Thượng nghị sĩ; tôi có quan hệ tốt với nhiều nhà lãnh đạo quan trọng trên thế giới từ Thủ tướng Angela Merkel đến Hamid Karzai. Một người bạn tốt của tôi, John Podesta - chủ nhiệm Ủy ban chuyển giao của Obama và từng là tham mưu trưởng cho chồng tôi khi còn làm Tổng thống - gọi tôi vào ngày 16/11 để bàn về một số vấn đề và nhấn mạnh lời đề nghị của Obama. Chúng tôi thảo luận về một số vấn đề thực tế như làm sao để trả 6 triệu USD cho chiến dịch chạy đua khi sắp nhận chức Ngoại trưởng. Tôi cũng không muốn hạn chế các công việc nhân đạo Bill đang thực hiện trên toàn cầu thông qua Quỹ Clinton; báo chí đã nói rất nhiều về những xung đột lợi ích có thể xảy ra giữa các nỗ lực từ thiện của anh ấy và cương vị mới của tôi. Vấn đề này đã được giải quyết rất nhanh chóng với sự giúp đỡ của Ủy ban chuyển giao của Tổng thống. Bill cũng đồng ý tiết lộ tên của các nhà tài trợ, cũng như từ bỏ “Sáng kiến Toàn cầu Clinton” - một hệ thống hội nghị từ thiện kiểu mới, liên kết nhiều tổ chức ở nước ngoài - để tránh những xung đột không đáng có. Bill trấn an tôi rằng: “Em làm Ngoại trưởng thì sẽ mang lại nhiều việc tốt hơn mọi hoạt động từ thiện của anh.” Trong suốt mấy thập kỉ gần đây, trong chiến dịch tranh cử và 4 năm nhiệm kì Ngoại trưởng, Bill đã là nguồn hỗ trợ rất đắc lực cho tôi. Anh ấy nhắc tôi phải tập trung vào các xu hướng (trendlines), và tận hưởng quãng thời gian này. Tôi cũng tham khảo ý kiến một số đồng nghiệp thân thiết. Thượng nghị sĩ Dianne Feinstein, Barbara Mikulski và Hạ nghị sĩ Ellen Tauscher đều khuyến khích tôi đồng ý, và cả Chuck Schumer - Thượng nghị sĩ đồng hành với tôi ở bang New York. Dù nhiều người thấy tôi và Chuck rất khác nhau và thường cạnh tranh, thật sự thì chúng tôi là một đội làm việc hiệu quả, và tôi rất tôn trọng bản năng của ông ấy. Ông Harry Reid - người lãnh đạo phe đa số ở Thượng nghị viện - đã làm tôi ngạc nhiên khi chia sẻ rằng Tổng thống đã hỏi ý kiến ông ấy về việc này trong một cuộc xuất hiện ở Las Vegas. Ông ấy bảo rằng dù rất muốn tôi ở lại Thượng nghị viện, nhưng lời đề nghị này thì không thể bỏ qua. Và tôi tiếp tục suy nghĩ; có lúc tôi muốn đồng ý ngay lập tức, ngay sau đó lại lên kế hoạch về đạo luật mới trình lên Thượng nghị viện. Sau này tôi mới biết đội ngũ của tôi và Obama đã tìm cách để tôi đồng ý nhận vị trí đó. Nhân viên của tôi báo sinh nhật của Joe Biden sớm hơn hai ngày, làm cho ông ấy có thể nói chuyện một lúc lâu và góp phần thuyết phục tôi. Tham mưu trưởng của Tổng thống mới, Rahm Emanuel cũng giả vờ nói là Tổng thống đang bận khi tôi cố gọi điện để từ chối nhận việc. Cuối cùng, vào ngày 20/11 Obama và tôi nói chuyện qua điện thoại. Ông ấy quan tâm đến những lo lắng của tôi, trả lời các câu hỏi và rất hứng thú về những việc mà chúng tôi sẽ làm. Tôi nói rằng dù còn các mối lo khác như việc từ thiện của Bill và số tiền dành cho chiến dịch tranh cử, điều tôi lo nhất là khả năng của tôi chỉ phù hợp với Thượng nghị viện chứ nội các thì không đủ. Và thật sự thì tôi muốn có một lịch làm việc quy củ sau một cuộc chạy đua dài hơi. Tôi liệt kê hết các vấn đề, và ông ấy nghe rất chăm chú rồi bảo đảm rằng các lo lắng của tôi sẽ được giải quyết. Tổng thống đã lái câu chuyện từ lời đề nghị sang nội dung công việc một cách khéo léo. Chúng tôi bàn luận về cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, thử thách tạo ra bởi Iran và Bắc Triều Tiên, và cách nước Mỹ có thể thoát ra khỏi khủng hoảng. Được trao đổi ý kiến một cách tự nhiên và riêng tư sau gần một năm tranh cãi dưới ống kính truyền hình tạo cho tôi một cảm giác thoải mái. Giờ nghĩ lại mới thấy cuộc nói chuyện này thật sự quan trọng: chúng tôi đã xây dựng một nền tảng, một đường lối cho chính sách đối ngoại Mỹ trong những năm tới. Tuy nhiên câu trả lời của tôi vẫn là “Không”, và Tổng thống vẫn không chấp nhận điều đó. Ông ấy nói: “Tôi muốn nghe câu trả lời là “Có”. Chị là người phù hợp nhất cho vị trí này.”
Đêm đó tôi gần như thức trắng. Nếu mọi thứ xảy ra ngược lại thì sao? Nếu tôi giành chiến thắng, trở thành Tổng thống và muốn Barack Obama là Ngoại trưởng của mình? Tất nhiên tôi muốn ông ấy trả lời “Có”, và thật nhanh để có thể chuyển sang các vấn đề khác. Tôi sẽ muốn những chính trị gia tài năng nhất tập hợp lại và làm việc chăm chỉ vì lợi ích quốc gia. Càng nghĩ tôi càng thấy Tổng thống đã chọn đúng: đất nước đang gặp khó khăn, ông ấy cần một Ngoại trưởng có thể bước vào vũ đài quốc tế ngay lập tức và bắt đầu sửa chữa những thiệt hại. Tôi cũng đồng ý với câu nói: “Nếu Tổng thống yêu cầu bạn, bạn nên đồng ý”. Tôi rất thích công việc ở Thượng nghị viện nhưng ông ấy cần tôi ở Bộ Ngoại giao. Bố tôi đã tham gia Hải quân thời Thế chiến II, với trách nhiệm huấn luyện các thủy thủ trẻ chiến đấu ở Thái Bình Dương. Ông ấy thường xuyên cằn nhằn về các quyết định của Tổng thống, tuy vậy bố mẹ đã tạo cho tôi một khái niệm rõ ràng về nghĩa vụ. “Làm tất cả những việc tốt bạn có thể, vào bất cứ khi nào, bất kì với ai và càng lâu càng tốt.” Tiếng gọi của trách nhiệm đã giúp tôi tiến vào nhiệm sở khi tham gia tranh cử Thượng nghị sĩ vào năm 2000, và giờ đây nó giúp tôi vượt qua một lựa chọn khó khăn và đảm nhiệm cương vị Ngoại trưởng. Đến sáng tôi đã quyết định, và gọi ngay cho Tổng thống. Ông ấy rất vui vì tôi đã đồng ý, đảm bảo rằng tôi sẽ được gặp ông ấy bất kì khi nào tôi muốn. Tôi có thể lựa chọn đội ngũ của mình cộng với một số gợi ý của Tổng thống. Tôi nhận thức được tầm quan trọng của những lời hứa đó. Trong lịch sử nếu Bộ Ngoại giao bị Nhà Trắng lơ là, kết quả thường có chiều hướng tiêu cực. Tổng thống chắc chắn mọi việc sẽ không như vậy; con đường của chúng tôi chắc chắn sẽ không bằng phẳng, tuy nhiên phải cố gắng tạo ra những điều kiện tốt nhất cho đất nước. Mối quan hệ của chúng tôi chưa thân thiết lắm, tuy nhiên tôi đã rất xúc động khi ông ấy nói chúng tôi có thể là những người bạn tốt; câu nói ấy đã đi cùng tôi trong suốt mấy năm sau đó.
Tổng thống đã đáp ứng các lời hứa của mình. Ông ấy cho tôi thoải mái chọn lựa đội ngũ, tin tưởng tôi với tư cách là cố vấn chính sách đối ngoại số 1 và thường xuyên gặp mặt để bàn luận các vấn đề quan trọng. Chúng tôi thường gặp nhau ít nhất một tuần một lần nếu không phải đi công tác. Bên cạnh đó còn các cuộc họp nội các, họp Hội đồng an ninh quốc gia, gặp mặt song phương với các nguyên thủ quốc gia… Tôi cũng hay gặp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Cố vấn an ninh quốc gia. Dù phải đi công tác rất nhiều, tôi đã đến Nhà Trắng hơn 700 lần trong 4 năm nhiệm kì. Sau khi thất bại, tôi không nghĩ rằng mình sẽ đến đó nhiều như vậy. Trong 4 năm đó, không phải lúc nào tôi cũng đồng ý với Tổng thống và đội ngũ của ông ấy; bạn sẽ được đọc một số trong cuốn sách này, tuy nhiên tôi sẽ giữ bí mật các chuyện còn lại để đảm bảo tính bảo mật giữa Tổng thống và Ngoại trưởng. Tuy vậy chúng tôi đã phát triển được một mối quan hệ công việc cũng như tình bạn cá nhân bền chắc. Vài tháng sau khi Tổng thống nhậm chức, vào một buổi chiều tháng 4 dịu mát, Tổng thống gợi ý nên tổ chức cuộc họp hàng tuần trên bàn picnic bãi cỏ phía Nam, ngay cạnh sân chơi của Malia và Sasha. Tôi cảm thấy rất thích, và báo chí đã gọi nó là “Cuộc họp chiến thuật trên bàn picnic”; tôi thì thích gọi nó là “Cuộc nói chuyện vui vẻ giữa hai người bạn tốt”. Vào thứ 2 ngày 1/12, Tổng thống mới đắc cử Obama tuyên bố lựa chọn tôi là Ngoại trưởng thứ 67 của nước Mỹ. Ông ấy phát biểu: “Sự bổ nhiệm Hillary là dấu hiệu của sự cam kết nghiêm túc của tôi với việc cải cách nền ngoại giao Mỹ.” Tháng sau, vào ngày 20/1/2009, tôi và chồng đứng xem Barack Obama tuyên thệ nhậm chức trong cái lạnh rét buốt. Bây giờ chúng tôi không còn là đối thủ mà là đối tác.
Phần 2
Châu Á – chiến lược xoay trục/tái cân bằng
Vào một ngày Chủ nhật đẹp trời giữa tháng 2/2009, đoàn xe của tôi đi qua những con phố vắng lặng của Căn cứ không quân Andrews. Chúng tôi đi qua nhiều trạm gác, phòng ở và nhà để máy bay để đến với những đường băng rộng rãi. Đây là chuyến công tác đầu tiên của tôi trên cương vị Ngoại trưởng. Chiếc xe dừng lại bên một chiếc Boeing 757 sơn màu xanh - trắng thuộc Không lực Hoa Kỳ; chiếc máy bay này được trang bị những thiết bị liên lạc tối tân, có khả năng hoạt động ở bất kì đâu trên thế giới. Một dòng chữ to màu đen “Hợp chúng quốc Hoa Kỳ” được in trên thành máy bay; tôi bước ra khỏi xe, dừng lại một chút và bước lên máy bay. Khi còn là Đệ nhất phu nhân, tôi đã đi nhiều nơi với Bill trên chiếc Air Force One - chiếc máy bay công vụ lớn và hiện đại nhất. Tôi cũng đã bay một mình khá nhiều trên một chiếc 757 giống như chiếc này, và một số máy bay khác với đoàn Thượng nghị sĩ đi thăm các nước như Iraq, Afghanistan và Pakistan… Nhưng các trải nghiệm đó cũng không thể giúp tôi hình dung cảm giác sau 2000 giờ bay, tương đương gần 1 triệu dặm trong vòng 4 năm; thời gian đó bằng 87 ngày di chuyển với vận tốc hơn 500 dặm một giờ. Chiếc máy bay là một biểu tượng của sức mạnh quốc gia mà tôi rất vinh dự được đại diện. Tôi luôn cảm thấy rất tự hào khi nhìn thấy một chiếc máy bay màu xanh - trắng giống như thế này ở bất cứ đâu trên thế giới. Trong máy bay, phía bên trái tôi các sĩ quan Không quân đang bận rộn với các máy tính và thiết bị liên lạc; vài phi công đang thực hiện những bước kiểm tra cuối cùng. Phía bên phải có một đường đi hẹp dẫn đến khoang riêng của tôi với một chiếc bàn nhỏ, một cái ghế gấp, tủ, phòng tắm và những chiếc điện thoại bảo mật. Tiếp đó là đến khoang chính, được chia làm 3 phần cho bộ phận an ninh, báo chí và nhân viên của Không quân. Các nhân viên của Bộ Ngoại giao đã thiết lập một văn phòng di động, được kết nối với Trung tâm chỉ huy ở trụ sở Bộ Ngoại giao. Văn phòng này có khả năng truy cập các tài liệu mật và những lịch trình chi tiết từ độ cao 10.000 mét. Xung quanh đó là những chiếc laptop, điện thoại và các nhân viên đang cố gắng chợp mắt một chút. Trên các bàn thường đầy những cuốn sách và bản thảo nháp, nhưng cũng có cả báo People và US Weekly. Phần giữa máy bay giống như một khoang thương gia bình thường, với các chuyên gia chính sách đến từ các cục thuộc Bộ Ngoại giao, phái viên từ Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, phiên dịch viên và đặc vụ của Cục an ninh ngoại giao. Tiếp đó là khoang dành cho các nhà báo và quay phim đi theo đoàn để đưa tin. Cuối cùng là các tiếp viên chuẩn bị các bữa ăn cho mọi người. Công việc ấy không phải dễ dàng do sở thích ăn uống và giờ giấc bất thường của mỗi người. Mỗi điểm dừng thì chúng tôi lại có những món khác nhau, như phomát Oaxaca ở Mexico, cá hồi hun khói ở Ireland hay trái cây tươi ở Cambodia. Dù vậy, vẫn luôn có những món cơ bản như món bánh kẹp gà tây nổi tiếng của Không quân. Khối kim loại này đã trở thành ngôi nhà trên không của chúng tôi. Các nhân viên của tôi được mặc quần áo bình thường, ngủ nhiều nhất có thể và làm bất cứ điều gì để giữ tỉnh táo và khỏe mạnh giữa một lịch trình dày đặc. Trong 2000 giờ đó, chúng tôi đã tổ chức sinh nhật, thấy các nhà ngoại giao rơi nước mắt khi xem các bộ phim hài lãng mạn, và chiêm ngưỡng bộ quần áo ngủ màu vàng của Richard Holbrooke. Trên máy bay thì thời gian chủ yếu được dành để làm việc, tuy vậy sau khi kết thúc các chuyến đi dài ngày thì mọi người thường thư giãn với một ly rượu, xem phim hoặc tán gẫu. Một lần chúng tôi đã xem phim “Breach” nói về Robert Hanssen, một đặc vụ FBI hoạt động ở Nga đầu những năm 90 của thế kỉ trước. Trong một cảnh Hanssen đã than phiền: “Không thể tin một phụ nữ mặc quần âu. Đó là trang phục của đàn ông, và thế giới không cần thêm Hillary Clinton nào nữa.” Mọi người trên máy bay đều cười vang. Thỉnh thoảng chiếc máy bay cũng gặp trục trặc. Một lần chúng tôi phải dừng ở Saudi Arabia do lỗi kĩ thuật, tôi đã được tướng David Petraeus cho đi nhờ. Dave nhường khoang riêng cho tôi và ra ngồi với các nhân viên. Giữa đêm chúng tôi dừng ở một căn cứ Không quân ở Đức để tiếp nhiên liệu; Dave xuống máy bay và đi thẳng tới phòng tập, nâng tạ trong một tiếng và chúng tôi lại bay tiếp.
Trong chuyến đi đầu tiên, tôi đi về phía các nhà báo. Nhiều người đã tháp tùng các Bộ trưởng Ngoại giao tiền nhiệm và đang suy đoán về sự khác biệt của nhiệm kì này. Một vài cố vấn cho rằng tôi nên dùng chuyến đi đầu tiên để hàn gắn lại mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương bị tổn hại dưới thời Tổng thống Bush. Một số khác gợi ý đi thăm Afghanistan, nơi lính Mỹ đang gặp khó khăn trong cuộc chiến với lực lượng du kích. Trước đây ông Colin Powell đã chọn Mexico, người láng giềng ở phía nam đất nước; Warren Christopher thì đi thăm vùng Trung Đông, nơi cần tập trung sự chú ý của chúng ta. Cuối cùng thì cấp phó mới của tôi, Jim Steinberg nói rằng tôi nên đi thăm châu Á, nơi được coi là trung tâm thế giới trong thế kỷ XXI sắp tới. Tôi nghĩ đó là một gợi ý đúng đắn, do vậy tôi quyết định phá lệ và đi thăm Nhật Bản, Indonesia, Hàn Quốc và cuối cùng là Trung Quốc. Chúng ta cần gửi một thông điệp đến châu Á và thế giới: Nước Mỹ đã trở lại. Khi trở thành Ngoại trưởng, tôi tin rằng nước Mỹ cần phải làm nhiều hơn để góp phần định hình tương lai của châu Á và kiểm soát mối quan hệ ngày càng phức tạp với Trung Quốc. Các sự kiện xảy ra ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ quyết định hướng đi của nền kinh tế toàn cầu, sự thịnh vượng của nước Mỹ, sự tiến bộ về dân chủ và nhân quyền và hi vọng về một thế kỉ XXI hòa bình, ít đẫm máu hơn thế kỉ XX. Khu vực này là ngôi nhà của hơn một nửa dân số thế giới, có những đồng minh tin cậy và đối tác thương mại quan trọng nhất của Mỹ, và những tuyến đường thương mại năng động nhất trên thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu sang khu vực này giúp nền kinh tế Mỹ phục hồi sau cuộc khủng hoảng, và sự phát triển trong tương lai phụ thuộc vào việc tiếp cận với tầng lớp trung lưu đang bùng nổ của châu Á. Đây cũng là nơi tồn tại những nguy cơ an ninh thực tế với Mỹ, đặc biệt là chế độ độc tài ở Bắc Triều Tiên.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc là một trong những sự phát triển chiến lược quan trọng nhất của thời kì hiện đại. Đó là một đất nước đầy những mâu thuẫn: một quốc gia ngày càng giàu có với hàng trăm triệu người đã thoát khỏi nghèo đói và một chế độ chuyên chế đang cố giải quyết các vấn đề trong nước như 100 triệu người sống ở mức dưới 1 đôla mỗi ngày. Quốc gia này là nhà sản xuất pin năng lượng mặt trời lớn nhất thế giới; đồng thời cũng thải ra lượng khí nhà kính lớn nhất, với một số đô thị ô nhiễm không khí nhất trên toàn cầu. Rất muốn trở thành một thế lực trên phạm vi toàn cầu nhưng lại không chịu giải quyết vấn đề với các nước láng giềng trên bình diện đa phương, Trung Quốc vẫn tỏ ra do dự trong vấn đề đối ngoại, đặc biệt là các tình huống căng thẳng. Với tư cách một Thượng nghị sĩ, tôi cho rằng nước Mỹ phải đối phó một cách cẩn thận và nghiêm túc với một Trung Quốc đang phát triển rất mạnh về tất cả các mặt kinh tế, ngoại giao và quân sự. Trong quá khứ, các thế lực mới nổi luôn phải đối mặt với sự chống đối. Với tình hình này thì mọi thứ rất phức tạp do nền kinh tế hai nước không ngừng tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau. Vào năm 2007, kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt 387 tỷ USD; năm 2013 con số đó đã vượt 562 tỷ USD. Trung Quốc đang giữ một lượng lớn trái phiếu chính phủ Mỹ, có nghĩa là hai nước đều có đóng góp vào những thành tựu kinh tế của nhau. Do vậy, hai nước có cùng lợi ích trong việc duy trì sự ổn định ở châu Á để tránh ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa và năng lượng. Tuy nhiên những giá trị và quan điểm của hai nước thường đối lập với nhau: các điểm nóng như Bắc Triều Tiên, Đài Loan, Tây Tạng; hay các vấn đề như nhân quyền, biến đổi khí hậu và tranh chấp ở biển Đông và biển Hoa Đông… Để giải quyết tất cả đòi hỏi một khả năng cân bằng khéo léo; chúng ta cần một chiến lược thật tinh tế để khích lệ Trung Quốc tham gia vào cộng đồng quốc tế như một chủ thể có trách nhiệm, và cùng lúc đảm bảo các giá trị và lợi ích của nước Mỹ. Đó là một chủ đề trong chiến dịch tranh cử ứng viên Tổng thống năm 2008 của tôi, theo đó nước Mỹ cần ứng phó linh hoạt và giữ vững lập trường. Tôi nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc thuyết phục Trung Quốc tuân thủ các quy tắc của thị trường toàn cầu, ví dụ như hủy bỏ mọi truyền thống phân biệt trong thương mại, nới lỏng chính sách tiền tệ hay ngăn chặn hàng hóa giả đến với người tiêu dùng trên toàn thế giới… Thế giới cần trách nhiệm từ tầng lớp lãnh đạo Trung Quốc nhằm thúc đẩy quá trình ứng phó biến đổi khí hậu, hạn chế xung đột trên bán đảo Triều Tiên và giải quyết nhiều thử thách khu vực cũng như toàn cầu khác. Chúng ta không được lợi gì từ việc biến Bắc Kinh thành một con ngáo ộp kiểu mới; thay vào đó cần phải tìm ra một công thức để kiểm soát sự cạnh tranh và tăng cường hợp tác. Từ thời Tổng thống Bush, Bộ trưởng tài chính Hank Paulson đã thực hiện các cuộc đối thoại kinh tế cấp cao với Trung Quốc và giải quyết được một số vấn đề thương mại quan trọng, tuy nhiên hai nước chưa bàn luận về các vấn đề an ninh và chiến lược. Vài nước ở châu Á cho rằng sự chú ý vào Iraq, Afghanistan và vùng Trung Đông đang làm suy giảm vị trí lãnh đạo truyền thống của Mỹ ở khu vực này. Nhận định này có phần hơi quá, tuy nhiên nó cho thấy một nguy cơ trong tương lai. Tôi nghĩ chúng ta cần tăng cường làm việc với Trung Quốc và đưa châu Á - Thái Bình Dương lên đầu kế hoạch công tác.
Jim Steinberg và tôi nhanh chóng đồng ý rằng Tiến sĩ Kurt Campbell là người phù hợp nhất cho vị trí Cục trưởng Cục Đông Á và Thái Bình Dương. Tiến sĩ Campbell trước đây đã tham gia vào việc định hình chính sách với châu Á ở Lầu Năm Góc và Hội đồng an ninh quốc gia thời chính quyền Clinton, và giờ đây ông ấy là kiến trúc sư chính của chiến lược mà chúng tôi đề ra. Kurt là một quan chức tận tâm, có tư duy chiến lược sáng tạo và óc hài hước vô tận. Trong những ngày đầu tiên của nhiệm kì, tôi đã điện đàm với các nhà lãnh đạo châu Á chủ chốt. Một trong số đó là cuộc nói chuyện với Ngoại trưởng Australia Stephen Smith. Thủ tướng Australia Kevin Rudd nói tiếng Hoa trôi chảy, và có một tầm nhìn rõ ràng về các cơ hội cũng như thách thức đến từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Australia với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đang hưởng lợi bằng cách cung cấp khoáng sản và nguyên liệu thô cho nền công nghiệp của Trung Quốc. Trung Quốc đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Australia, vượt qua cả Nhật và Mỹ. Nhưng Thủ tướng Rudd vẫn hiểu rằng hòa bình và an ninh của khu vực phải dựa vào sự lãnh đạo của Mỹ, và ông ấy đánh giá cao mối quan hệ của hai nước trong lịch sử; ông ấy không muốn thấy Mỹ rút lui hay mất ảnh hưởng tại châu Á. Trong cuộc gọi đầu tiên, Ngoại trưởng Smith bày tỏ hi vọng rằng chính quyền Obama sẽ “can thiệp sâu hơn vào châu Á”. Tôi noi rằng tôi cũng có suy nghĩ như vậy và hướng tới một mối quan hệ đối tác gần gũi. Australia trở thành một đồng minh quan trọng trong chiến lược của chúng ta tại châu Á trong những năm sau đó, dưới sự lãnh đạo của Rudd và người kế nhiệm, Thủ tướng Julia Gillard. Nước láng giềng của Australia, New Zealand lại là một thử thách khác. Trong vòng 25 năm qua, quan hệ Mỹ - New Zealand rất hạn chế, nhất là sau sự kiện New Zealand cấm mọi tàu ngầm hạt nhân ghé thăm cảng của mình. Tuy nhiên, tôi nghĩ tình bạn lâu năm và những lợi ích chung là cầu nối để hàn gắn và xây dựng một mối quan hệ mới giữa Wellington và Washington. Trong chuyến thăm New Zealand năm 2010, tôi và Thủ tướng John Key đã kí kết Tuyên bố Wellington, cam kết sự hợp tác trong các vấn đề ở châu Á - Thái Bình Dương và các tổ chức đa phương. Năm 2012, Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã bỏ lệnh cấm tàu New Zealand vào các căn cứ của Mỹ tồn tại suốt 26 năm qua. Trong chính trị quốc tế, đôi khi xây dựng lại quan hệ với một đối tác cũ cũng tốt như tìm một người bạn mới. Từ các cuộc gọi trong tuần đầu tiên, tôi tin rằng chúng ta cần một cách tiếp cận mới với khu vực này. Jim và tôi đã bàn thảo với nhiều chuyên gia về các khả năng và triển vọng. Chúng ta có thể mở rộng quan hệ với Trung Quốc và mọi việc ở châu Á sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, với điều kiện rằng Trung Quốc phải tuân thủ các luật chơi quốc tế. Bên cạnh đó, ta có thể tập trung củng cố các liên minh hiệp ước với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines và Australia) để tạo ra đối trọng với sức mạnh của Trung Quốc. Cách thứ ba là thúc đẩy các hoạt động và sự hòa hợp của các tổ chức đa phương trong khu vực như ASEAN và APEC. Không thể hi vọng các tổ chức ấy lập tức có được sự gắn kết như Liên minh châu Âu, tuy vậy ví dụ ở các khu vực khác cho thấy các bài học quan trọng về giá trị của các cơ chế đa phương. Các cơ chế đó tạo ra cơ hội để các quốc gia có thể nêu lên quan điểm của mình và hợp tác nhằm giải quyết các nguy cơ chung, xử lí các bất đồng, xây dựng hệ thống quy tắc và tiêu chuẩn ứng xử, đem lại sự tin cậy, tôn trọng lẫn nhau và trừng phạt những chủ thể vi phạm các luật chơi. Nếu các cơ chế đa phương của châu Á được ủng hộ và hiện đại hóa, chúng có thể củng cố các tập quán trong khu vực từ quyền sở hữu trí tuệ tới tự do hàng hải, hay huy động các nỗ lực chung để đối phó với các mối lo như biến đổi khí hậu và cướp biển. Các biện pháp ngoại giao đa phương này thường rất chậm và tốn thời gian, không có các đột phá nổi bật nhưng có thể đem lại hiệu quả thiết thực cho hàng triệu người ở mọi nơi trên thế giới.
Cuối cùng tôi quyết định rằng chúng ta sẽ áp dụng cả ba phương pháp, đó là biểu hiện của “quyền lực khôn khéo”. Nước Mỹ sẽ “chơi hết mình” ở châu Á; tôi sẽ là người dẫn đầu, tuy nhiên thành công phụ thuộc vào nỗ lực của toàn chính phủ, bắt đầu từ Nhà Trắng. Tổng thống cũng đồng ý chọn châu Á làm trọng tâm trong chính sách đối ngoại của chính quyền mới. Ông ấy có một mối quan hệ cá nhân sâu sắc với khu vực này (sinh ra ở Hawaii, sống nhiều năm ở Indonesia) và hiểu được tầm quan trọng của nó. Ông ấy và đội ngũ ở Hội đồng an ninh quốc gia (Tướng Jim Jones, Tom Donilon và chuyên gia về châu Á Jeff Bader) ủng hộ chiến lược của chúng tôi. Trong vòng 4 năm, chúng tôi đã thực hiện “ngoại giao chủ động”(forward-deployed diplomacy) - tăng tốc độ và phạm vi can thiệp của các vấn đề ngoại giao, đưa các quan chức cấp cao và chuyên gia phát triển đi xa hơn, tham gia tích cực hơn vào các tổ chức đa phương, khẳng định mối quan hệ với các đồng minh truyền thống và tìm kiếm các đối tác chiến lược mới. Do các mối quan hệ cá nhân và cử chỉ tôn trọng là rất cần thiết ở châu Á, tôi đã đặt ưu tiên phải đi thăm hầu hết các nước trong khu vực. Tôi đã đến thăm một trong những đảo nhỏ nhất Thái Bình Dương, nhà của một người đoạt giải Nobel bị giam cầm lâu năm cho đến đường biên giới được canh gác nghiêm ngặt nhất trên thế giới. Qua 4 năm, tôi đã trình bày một loạt bài phát biểu nhằm giải thích chiến lược của chúng tôi và lí giải tại sao chính phủ Mỹ lại quan tâm nhiều hơn tới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mùa hè năm 2011, tôi bắt đầu viết một bài luận dài để tổng kết công việc đối ngoại đã làm được trong khu vực. Cuộc chiến ở Iraq đang dần kết thúc, và quá trình chuyển giao quyền lực đang diễn ra ở Afghanistan. Sau một thập kỉ tập trung đối phó với nguy cơ nghiêm trọng nhất, đã đến thời điểm “xoay trục”. Tất nhiên chúng ta vẫn phải tập trung giải quyết các nguy cơ còn tồn tại, tuy vậy đã đến lúc phải tận dụng các cơ hội mới. Vài tháng sau, tạp chí Foreign Policy đã đăng bài của tôi với tựa đề “Thế kỉ Thái Bình Dương của nước Mỹ”, nhưng từ “xoay trục” đã được chú ý rất nhiều. Các nhà báo dùng nó để miêu tả sự tập trung của chính phủ mới với châu Á, tuy nhiên các đồng nghiệp của tôi thích dùng cụm từ “tái cân bằng sang châu Á” hơn. Một số bạn bè và đồng minh ở các khu vực khác đã lo ngại rằng chúng tôi sẽ quay lưng về phía họ, nhưng chúng tôi đã cố gắng làm rõ rằng nước Mỹ xoay trục về châu Á nhưng cũng không bỏ qua các trách nhiệm và cơ hội ở nơi khác.
Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là khôi phục lại sức mạnh Mỹ ở Thái Bình Dương mà không phải đối mặt một cách không cần thiết với Trung Quốc. Do vậy chuyến thăm đầu tiên của tôi có 3 mục tiêu: củng cố quan hệ với các đồng minh chủ chốt ở châu Á (Nhật Bản & Hàn Quốc), thúc đẩy quan hệ với Indonesia - một nước đang nổi lên trong khu vực và có vai trò quan trọng trong ASEAN, và bắt đầu sự tương tác với Trung Quốc. Đầu tháng 2, tôi mời một số chuyên gia và học giả về châu Á đến ăn tối ở Bộ Ngoại giao. Chúng tôi dùng bữa trong Phòng Tiếp đón Quốc gia Thomas Jefferson trên tầng 8; tôi đã tổ chức nhiều sự kiện chiêu đãi ở đó trong nhiệm kì. Đó là một trong những căn phòng tôi thích nhất ở trụ sở Bộ, với màu sơn xanh ngọc và đồ nội thất cổ kiểu Chippendale. Chúng tôi thảo luận về cách cân bằng lợi ích của Mỹ ở châu Á, ví dụ như có thể ép Trung Quốc về vấn đề nhân quyền hay biến đổi khí hậu đến đâu mà vẫn có sự ủng hộ của họ trong các vấn đề an ninh như Iran hay Bắc Triều Tiên? Cựu đại sứ ở Singapore, Indonesia và Trung Quốc, ông Stapleton Roy cho rằng tôi không nên bỏ qua Đông Nam Á; trong những năm qua nước Mỹ đã tập trung vào Đông Bắc Á do các mối quan hệ đồng minh với Nhật và Hàn Quốc, nhưng các nước như Indonesia, Malaysia và Việt Nam đang phát triển mạnh cả về mặt kinh tế và chiến lược. Roy và một số chuyên gia khác ủng hộ kế hoạch về một hiệp ước với ASEAN, điều này sẽ mở ra một cánh cửa cho sự tăng cường ảnh hưởng Mỹ ở khu vực - một bước đi nhỏ nhưng đem lại lợi ích lớn. Một tuần sau tôi đến thăm Viện Châu Á ở New York để trình bày bài phát biểu đầu tiên với tư cách Ngoại trưởng về cách tiếp cận với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ông Orville Schell - một học giả nghiên cứu sâu về Trung Quốc - đã gợi ý tôi sử dụng một thành ngữ cổ từ cuốn “Binh pháp Tôn Tử”. Thành ngữ này nói về hai người lính ở hai bên chiến tuyến ở cùng trên một con thuyền, cố gắng vượt sông khi có bão. Thay vì chém giết, họ hợp tác với nhau và vượt qua cơn bão. Có thể dịch một cách nôm na là “cùng hội cùng thuyền”. Đây là một lời khuyên chính xác cho Mỹ và Trung Quốc khi hai nền kinh tế liên kết rất chặt chẽ và phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Thành ngữ này có vẻ gây ấn tượng; Thủ tướng Ôn Gia Bảo và các nhà lãnh đạo khác đã nhắc đến nó khi thảo luận với tôi sau này. Vài ngày sau, tôi lên máy bay và đi sang phía bên kia Thái Bình Dương.
Sau nhiều năm đi lại, tôi đã rèn luyện được thói quen ngủ ở bất kì đâu và bất kì lúc nào: trên máy bay, trên xe hơi hay chợp mắt một lúc trong phòng khách sạn. Trên đường đi, tôi luôn cố gắng ngủ một chút vì không biết bao giờ mình mới được ngủ một giấc ngon lành. Khi tôi phải thức để họp, tôi uống rất nhiều cà phê và trà, và thỉnh thoảng còn bấu vào mu bàn tay cho đỡ buồn ngủ. Đó là cách duy nhất tôi biết để đối phó với một lịch trình điên rồ và sự lệch múi giờ. Nhưng tôi không thể ngủ được khi máy bay dần hướng tới Tokyo. Tôi không thể ngừng nghĩ về các chi tiết của chuyến đi. Lần đầu tôi đến thăm Nhật Bản là với Bill khi anh ấy còn làm thống đốc bang Arkansas cùng một đoàn doanh nghiệp. Nhật là một đồng minh thân cận nhưng cũng là một đối tượng gây lo ngại ở Mỹ. “Phép màu kinh tế” của Nhật trước đây và sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện nay xảy ra cùng lúc với sự chững lại và suy yếu của nền kinh tế Mỹ. Bìa cuốn sách “Hưng thịnh và Suy vong” của Paul Kennedy xuất bản năm 1987 có hình một chú Sam lo lắng bước lên bậc thang toàn cầu, phía sau có một doanh nhân Nhật với vẻ mặt quyết tâm. Nghe quen chứ? Khi một doanh nghiệp Nhật mua lại Tòa nhà Rockefeller ở New York vào năm 1989, báo chí đã rối hết lên; tờ Chicago Tribune đã giật tít: “Nước Mỹ là để bán?”. Nỗi lo chính đáng về tương lai của nền kinh tế Mỹ là một trong những nhân tố giúp Bill tranh cử Tổng thống thành công năm 1992. Tuy vậy đến lúc Nhật hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko đón tiếp hai vợ chồng tôi ở Tokyo năm 1993, sức manh kinh tế Mỹ đã được phục hồi. Ngượi lại, Nhật Bản phải đối mặt với “Thập kỉ mất mát” sau khi bong bóng tài sản và tín dụng vỡ tan, làm cho các ngân hàng và doanh nghiệp khổ sở vì nợ xấu. Nền kinh tế của họ hầu như không tăng trưởng, dẫn đến nhiều lo lắng mới cho cả họ và ta. Nhật Bản vẫn là một trong những nền kinh tế hàng đầu thế giới và một đối tác quan trọng để khắc phục hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tôi chọn Tokyo là điểm đến đầu tiên để biểu thị rằng chính quyền mới của Mỹ coi mối quan hệ đồng minh với Nhật là hòn đá tảng trong chiến lược khu vực. Thủ tướng Taro Aso đã đến thăm Washington cuối tháng đó, là nguyên thủ đầu tiên gặp Tổng thống Obama ở Phòng Bầu Dục. Sức mạnh của mối quan hệ đó đã được chứng tỏ vào tháng 3/2011, khi một trận động đất 9 độ Richter xảy ra ở bờ biển phía Đông Nhật Bản, tạo ra một cơn sóng thần cao hàng chục mét và khiến cho nhà máy hạt nhân ở Fukushima gặp sự cố rò rỉ nghiêm trọng. Ba thảm họa liên tiếp đã làm chết gần 20.000 người, làm hàng trăm nghìn người phải sơ tán và trở thành một trong những thảm họa gây thiệt hại kinh tế lớn nhất trong lịch sử. Sứ quán Mỹ và Hạm đội 7 đã nhanh chóng hợp tác với chính quyền và Lực lượng phòng vệ Nhật Bản để vận chuyển thực phẩm và thuốc men, thực hiện các nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn, sơ tán người bị thương… Chiến dịch này có tên là Tomodachi, nghĩa là “bạn hữu” trong tiếng Nhật. Trong chuyến thăm này, tôi hạ cánh xuống Tokyo với sự tiếp đón của hai nữ phi hành gia và các thành viên của đội Olympic Nhật Bản. Sau khi ngủ vài tiếng ở khách sạn Okura nổi tiếng với phong cách những năm 1960, tôi đến thăm đền Minh Trị. Sau đó là gặp gỡ với các nhân viên Đại sứ quán và gia đình, ăn trưa với Ngoại trưởng, gặp mặt các gia đình có thân nhân bị Bắc Triều Tiên bắt cóc, nói chuyện với sinh viên Đại học Tokyo, họp báo, ăn tối với Thủ tướng và tiếp xúc với lãnh đạo phe đối lập. Đó là ngày bận rộn đầu tiên trong nhiệm kì Ngoại trưởng, đầy những kết quả và cảm xúc trái ngược nhau. Một trong những điểm nhấn là cuộc gặp mặt Hoàng hậu Michiko ở Hoàng cung. Đó là một vinh dự hiếm có, là kết quả của mối quan hệ cá nhân nồng ấm từ khi tôi còn là Đệ nhất phu nhân. Chúng tôi cười và ôm xã giao; sau đó cùng nhau đi vào phòng tiếp đón. Nhật hoàng cũng ghé qua uống trà và hỏi thăm về chuyến đi của tôi.
Để lên kế hoạch cho một chuyến công du nước ngoài phức tạp như vậy cần một đội ngũ thật sự tài giỏi. Tham mưu phó của tôi, Huma và giám đốc lịch trình Lona Valmoro đã chấp nhận vô số lời mời mà không bị chồng chéo, và thành lập một quy trình đảm bảo tôi sẽ đến các sự kiện và điểm dừng chân hợp lý nhất. Tôi nói rõ rằng tôi không chỉ làm việc ở các trụ sở hay cung điện; tôi muốn gặp gỡ người dân, các nhà hoạt động xã hội, các nhà báo, sinh viên và giảng viên, lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động, lãnh tụ tôn giáo… Họ là những thành phần chính tạo nên xã hội, là động lực thúc đẩy hoạt động của chính phủ cũng như các thay đổi cần thiết. Tôi đã làm những việc đó từ khi còn là Đệ nhất phu nhân. Trong một bài phát biểu ở Diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos, Thụy Sĩ năm 1998, tôi đã so sánh một xã hội tốt đẹp với một cái ghế ba chân: một chính phủ có trách nhiệm, một nền kinh tế mở và một xã hội dân sự năng động - yếu tố thường bị bỏ qua. Nhờ có Internet và truyền thông, các công dân và tổ chức cộng đồng đã được tiếp cận nhiều hơn với thông tin và được phát biểu ý kiến một cách thường xuyên hơn. Giờ đây kể cả các chế độ chuyên chế cũng phải lắng nghe các tâm tư nguyện vọng của người dân, ví dụ như phong trào Mùa xuân Arab. Với nước Mỹ, việc xây dựng mối quan hệ thân thiết với công chúng nước ngoài là rất quan trọng; điều này góp phần đảm bảo sự hợp tác lâu dài với các đối tác của chúng ta, đem lại sự ủng hộ cho các mục tiêu và giá trị chúng ta hướng tới, ngay cả khi chính phủ của họ có quan điểm bất đồng. Trong nhiều trường hợp thì chính các lực lượng dân sự là động lực chính cho sự tiến bộ của một quốc gia: họ tấn công nạn tham nhũng, huy động các phong trào trong tầng lớp lao động, và kêu gọi giải quyết các vấn đề như ô nhiễm môi trường, vi phạm nhân quyền và bất bình đẳng kinh tế. Ngay từ đầu, tôi muốn nước Mỹ sát cánh với họ, khích lệ và ủng hộ họ đến cùng. Cuộc nói chuyện đầu tiên của tôi ở Nhật là tại Đại học Tokyo. Tôi nói với các sinh viên rằng nước Mỹ luôn sẵn sàng lắng nghe các câu hỏi của họ. Họ đưa ra một đống các câu hỏi về các vấn đề như mối quan hệ đồng minh Mỹ - Nhật, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, triển vọng của nền dân chủ ở Myanmar, độ an toàn của năng lượng hạt nhân, căng thẳng với thế giới Hồi giáo, biến đổi khí hậu và cách để một người phụ nữ thành công trong một xã hội nam quyền thống trị. Đó là cuộc nói chuyện công khai đầu tiên mà tôi thực hiện với thanh niên trên thế giới; tôi thích được nghe suy nghĩ của họ và tham gia vào các cuộc thảo luận trực tiếp. Vài năm sau tôi được biết con gái hiệu trưởng trường Đại học Tokyo cũng ngồi trong đám đông hôm đó. Cô ấy đã quyết định trở thành một nhà ngoại giao và đang làm việc ở Bộ Ngoại giao Nhật Bản. Vài ngày sau ở trường Đại học Nữ sinh Ewha ở Seoul, Hàn Quốc, tôi đã nhận ra việc giao lưu với thanh niên có thể đưa tôi vượt lên trên các vấn đề đối ngoại truyền thống. Khi tôi bước lên sân khấu, mọi người vỗ tay nhiệt liệt. Sau đó những phụ nữ trẻ hăm hở lên xếp hàng để hỏi tôi; những câu hỏi khá cá nhân nhưng không thiếu sự tôn trọng.
Hỏi: Bà có gặp khó khăn khi phải đối phó với các nhà lãnh đạo có tư tưởng phân biệt giới tính?
Trả lời: Tôi đoán rằng khi làm việc với tôi, nhiều người cố gắng bỏ qua yếu tố tôi là một phụ nữ. Tuy nhiên tôi vẫn cố tỏ rõ điều đó với họ. (Tuy vậy, trong thực tế thì phụ nữ làm chính trị vẫn gặp phải sự thiếu công bằng. Kể cả như cựu Thủ tướng Úc Julia Gillard cũng phải đối mặt với sự phân biệt rất quá đáng - điều không nên xảy ra ở bất kì đâu.)
Hỏi: Bà có thể kể về con gái Chelsea được không?
Trả lời: Tôi có thể nói hàng giờ liền, nhưng trên hết tôi có thể nói Chelsea là một cô gái tuyệt vời và tôi rất tự hào về nó.
Hỏi: Quan niệm của bà về tình yêu là như thế nào?
Trả lời: (Tôi đã cười và thấy mình giống một nhà tư vấn tâm lý hơn một Ngoại trưởng). Mọi người miêu tả tình yêu như thế nào? Các nhà thơ đã dành nhiều thiên niên kỷ để sáng tác về tình yêu. Các nhà văn, chuyên gia tâm lý đều viết về nó. Nếu bạn có thể miêu tả nó thì tôi không nghĩ bạn đang được trải nghiệm tình yêu theo đúng nghĩa của nó vì đó là một mối quan hệ mang tính cá nhân rất cao. Tôi rất may mắn vì chồng tôi là người bạn thân nhất, và chúng tôi đã ở bên nhau từ khi các bạn còn chưa ra đời.
Những phụ nữ trẻ này cảm nhận được một mối liên kết cá nhân với tôi; sự thoải mái và tự tin khi họ nói chuyện với tôi thật tuyệt, tôi có cảm giác như một người bạn hay cố vấn chứ không phải là một quan chức chính phủ đến từ một nơi xa xôi. Tôi muốn trở nên xứng đáng với sự ngưỡng mộ của họ; qua những cuộc đối thoại này, tôi hi vọng có thể vượt qua các rào cản văn hóa và xây dựng một hình ảnh tích cực về nước Mỹ trong tâm trí họ.
Sau khi rời Nhật tôi đến Jakarta, Indonesia và được tiếp đón bởi một nhóm học sinh đến từ trường tiểu học mà Tổng thống Obama đã từng theo học. Trong chuyến thăm, tôi đã lên sóng trong chương trình “The Awesome Show” - một trong những chương trình truyền hình nổi tiếng nhất của Indonesia. Chương trình này có vẻ giống kênh MTV với âm nhạc giữa các phân cảnh, và những người dẫn chương trình trông trẻ như học sinh vậy. Họ đã hỏi tôi một câu hỏi phổ biến: Sao bà có thể làm việc chung với Tổng thống Obama sau một cuộc đối đầu căng thẳng như thế? Indonesia là một nền dân chủ còn rất non trẻ; nhà độc tài lâu năm Suharto đã bị rớt đài vào năm 1998, và cuộc bầu cử Tổng thống trực tiếp đầu tiên mới được tổ chức vào năm 2004. Do vậy người dân Indonesia thấy bất ngờ khi một đối thủ chính trị không bị bỏ tù hay lưu đày mà lại được bổ nhiệm làm Ngoại trưởng. Tôi nói rằng thất bại đó làm tôi rất buồn, tuy vậy nền dân chủ chỉ có thể hoạt động nếu các chính trị gia bỏ qua lợi ích cá nhân và hướng tới các mục tiêu chung. Tôi đồng ý nhận vị trí này vì tôi là một người yêu nước; đó là một trong nhiều lần tôi sử dụng mối quan hệ đối tác với Obama để diễn giải về nền dân chủ cho người dân nước khác. Tối hôm trước, trong bữa tối với những công dân ưu tú ở Bảo tàng Lưu trữ Quốc gia, chúng tôi đã bàn luận về các thử thách lớn lao mà người dân và chính quyền Indonesia phải đối mặt: hòa hợp nền dân chủ với Hồi giáo, quá trình hiện đại hóa và quyền phụ nữ trong một đất nước có số tín đồ đạo hồi lớn nhất thế giới. Trong thế kỉ trước Indonesia không đóng vai trò quan trọng trong bàn cờ chính trị khu vực. Khi tôi đến đây lần đầu tiên vào 15 năm trước, nước này vẫn còn nghèo và chưa có chế độ dân chủ. Đến năm 2009, Indonesia đã lột xác dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono. Sự tăng trưởng kinh tế đã giúp nhiều người thoát nghèo, và Indonesia đang tích cực chia sẻ với các nước châu Á bài học từ việc thoát khỏi chế độ độc tài. Tôi rất ấn tượng với Tổng thống Yudhoyono, ông ấy nắm rất chắc tình hình quốc tế và khu vực và có một tầm nhìn thú vị với sự phát triển trong tương lai của đất nước. Trong cuộc đối thoại đầu tiên, ông ấy giợi ý tôi nên có một cách tiếp cận mới với Myanmar - nước nằm dưới sự cai trị của chính quyền quân sự hàng thập kỉ qua. Tổng thống Yudhoyono đã gặp Thống tướng Than Shwe - người đứng đầu chính quyền Myanmar - 2 lần; chính quyền quân sự có thể hướng tới một nền dân chủ nếu Mỹ và cộng đồng quốc tế đồng ý giúp đỡ họ. Tôi lắng nghe rất cẩn thận, và chúng tôi đã làm việc kĩ lưỡng để giúp đỡ Myanmar thay đổi; quan hệ với đất nước đó trở thành một trong những thành tựu lớn nhất trong nhiệm kì Ngoại trưởng của tôi. Jakarta cũng là nơi đặt trụ sở của ASEAN, tổ chức quốc tế mà các chuyên gia ở Washington khuyên tôi nên ưu tiên tiếp xúc. Trong một cuộc phỏng vấn ở Tokyo, phóng viên Nhật đã lưu ý tôi về sự thất vọng đang lan rộng ở Đông Nam Á do sự vắng mặt ở các hội nghị ASEAN gần đây của quan chức Mỹ. Có ý kiến cho rằng đó là dấu hiệu của sự suy giảm ảnh hưởng Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc đang không ngừng phát triển. Phóng viên ấy muốn biết liệu tôi sẽ tiếp tục xu hướng cũ hay sẽ tái khởi động lại mối quan hệ này. Đó là câu hỏi cho thấy châu Á rất mong muốn các biểu hiện tương xứng với vị thế lãnh đạo của Mỹ. Tôi trả lời rằng phát triển quan hệ với các tổ chức như ASEAN là một phần quan trọng trong chiến lược khu vực, và tôi dự định sẽ tham gia nhiều cuộc họp nhất có thể. Hợp tác với ASEAN sẽ là cách Mỹ khởi động quá trình tăng cường vị thế ở Đông Nam Á và thúc đẩy các quốc gia phối hợp trong các vấn đề thương mại, an ninh và môi trường. Chưa Ngoại trưởng Mỹ nào từng đến thăm trụ sở của ASEAN; Tổng thư ký Surin Pitsuwan đã chào đón tôi với những bông hồng vàng - màu sắc của sự khởi sắc và hi vọng theo quan niệm của người Indonesia. Ông ấy nói: “Chuyến thăm của bà cho thấy sự nghiêm túc của nước Mỹ trong việc kết thúc sự vắng mặt ở khu vực này.” Lời chào này khá thẳng thắn, và ông ấy đã nắm được các ý định của chúng tôi.
Điểm dừng chân tiếp theo là Hàn Quốc - một nước giàu, tiến bộ và là một đồng minh quan trọng, có một nước láng giềng chuyên chế và hiếu chiến ở phía Bắc. Quân đội Mỹ đã đồn trú ở đây từ sau khi Chiến tranh Triều Tiên tạm ngưng vào năm 1953. Trong cuộc gặp với Tổng thống Lee Myung-bak và các quan chức, tôi đã đảm bảo cam kết quốc phòng đối với Hàn Quốc của chính quyền mới sẽ không thay đổi. Ngược lại, Bắc Triều Tiên là một trong những đất nước kín đáo nhất trên thế giới. Rất nhiều người trong số 25 triệu dân phải sống trong cảnh nghèo khó, áp bức chính trị và nạn đói xảy ra thường xuyên. Tuy nhiên chính quyền dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch quá cố Kim Jong-il và con trai Kim Jong-un lại tập trung hầu hết nguồn lực ít ỏi vào lĩnh vực quân sự, phát triển vũ khí hạt nhân và mang lại lo sợ cho các quốc gia láng giềng. Vào năm 1994, chính quyền Clinton đã ký một thỏa thuận với Bắc Triều Tiên, theo đó họ sẽ ngừng xây dựng các cơ sở bí mật được cho là nằm trong kế hoạch phát triển vũ khí hạt nhân. Đổi lại, Mỹ sẽ giúp xây dựng 2 lò phản ứng hạt nhân loại nhỏ để cung cấp năng lượng nhưng không sản xuất vũ khí. Thỏa thuận đó cũng mở ra triển vọng bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.Đến tháng 9/1999, một thỏa thuận khác về viện ngừng thử các tên lửa tầm xa được hoàn tất. Vào tháng 10/2000, Ngoại trưởng Madeleine Albright đã đến thăm Bắc Triều Tiên với nỗ lực phát hiện các ý đồ của họ và thương thảo về một thỏa thuận giám sát. Tuy họ đã hứa hẹn khá nhiều nhưng một thỏa thuận toàn diện chưa bao giờ trở thành hiện thực. Khi Tổng thống Bush lên nắm quyền, ông ấy thay đổi thái độ rất nhanh và đã đưa Bắc Triều Tiên vào danh sách “Trục ma quỷ” trong bài phát biểu trước Quốc hội năm 2002. Có các bằng chứng cho thấy họ đang bí mật làm giàu uranium, và bắt đầu làm giàu plutonium vào năm 2003. Đến khi nhiệm kì của Bush kết thúc, Bình Nhưỡng đã sở hữu một vài đầu đạn hạt nhân, đe dọa đến an ninh của Hàn Quốc cũng như toàn khu vực. Trong cuộc họp báo ở Seoul, tôi đã đưa ra một đề nghị với Bắc Triều Tiên: nếu họ sẵn sàng từ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân, chính quyền Obama sẽ đồng ý bình thường hóa quan hệ, thay thế thỏa thuận ngừng bắn từ năm 1953 với một hiệp định hòa bình và giúp đỡ trong các vấn đề năng lượng, kinh tế và nhân đạo, nếu không thì họ vẫn bị cô lập như trước. Đó là bước đi đầu tiên của một quá trình kéo dài toàn bộ nhiệm kì của tôi, và khả năng thành công là không lớn lắm. Tuy vậy, chúng tôi hi vọng rằng áp lực từ các nước khác trong một mặt trận thống nhất- đặc biệt là Trung Quốc, nước bảo hộ và tài trợ lâu năm cho chính quyền Bình Nhưỡng - sẽ làm tình hình trở nên khả quan hơn.
Không lâu sau họ đã đưa ra câu trả lời. Vào tháng 3/2009, một nhóm phóng viên Mỹ thuộc Current TV (được cựu Phó Tổng thống Al Gore đồng sáng lập và sau này được bán cho Al Jazeera) đã đến biên giới Trung Quốc - Bắc Triều Tiên để đưa tin về những người phụ nữ Bắc Triều Tiên bị bán qua biên giới, lạm dụng tình dục và đối xử như nô lệ. Rạng sáng ngày 17/3, một người dẫn đường đưa họ vượt sông Đồ Môn vẫn còn bị đóng băng để sang lãnh thổ Bắc Triều Tiên. Sau đó họ trở về bên Trung Quốc, tuy nhiên những người lính biên phòng Bắc Triều Tiên xuất hiện và bắt được hai phóng viên nữ là Euna Lee và Laura Ling. Họ bị đưa về Bắc Triều Tiên và bị kết án 12 năm lao động khổ sai. Hai tháng sau Bắc Triều Tiên tiến hành một cuộc thử hạt nhân dưới lòng đất và tuyên bố không còn ràng buộc gì với thỏa thuận ngừng bắn năm 1953. Chúng tôi đã đưa bàn tay rộng mở với họ đúng như bài phát biểu nhậm chức của Tổng thống Obama, tuy nhiên họ đã trả lời với một nắm đấm. Bước đầu tiên chúng tôi làm là xem xét các khả năng hành động ở Liên Hợp Quốc. Tôi và Đại sứ Susan Rice đã có hàng giờ điện đàm với lãnh đạo Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và các nước khác để tìm kiếm sự ủng hộ cho một nghị quyết trừng phạt đối với Bình Nhưỡng. Mọi người đều đồng ý lên án vụ thử hạt nhân, nhưng trừng phạt như thế nào lại là câu chuyện khác. Tôi nói với Ngoại trưởng Dương Khiết Trì: “Tôi biết chính phủ các ông rất khó xử nhưng nếu chúng ta cùng hành động, có thể thay đổi tính toán của Bắc Triều Tiên về cái giá phải trả nếu theo đuổi chương trình hạt nhân và tên lửa của họ.” Ông Dương nói rằng Trung Quốc rất quan ngại về một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, và đồng ý rằng một phản ứng “bình tĩnh và hợp lý” là rất cần thiết. Tôi hi vọng ẩn ý của ông ấy không phải là “vô hại”. Đến giữa tháng 6 thì các nỗ lực của chúng tôi đã phát huy hiệu quả: tất cả thành viên của Hội đồng bảo an đều đồng ý áp đặt các biện pháp trừng phạt bổ sung. Chúng tôi phải nhượng bộ một chút để có sự ủng hộ của Nga và Trung Quốc, nhưng đây là những biện pháp trừng phạt nặng nhất từ trước đến nay với Bắc Triều Tiên; tôi rất hài lòng vì đã tạo ra được một phản ứng quốc tế thống nhất. Nhưng còn các nhà báo bị bắt thì sao? Chúng tôi nghe rằng Kim Jong-il chỉ thả họ nếu được một phái đoàn cao cấp của Mỹ đến thăm và đề nghị. Tôi đã bàn luận với Tổng thống và các cố vấn an ninh quốc gia. Những cái tên được nhắc đến là Al Gore, cựu Tổng thống Jimmy Carter và bà Madeleine Albright. Tuy nhiên họ đã có một ứng cử viên cụ thể và rất bất ngờ: chồng tôi, Bill Clinton. Một mặt chính phủ Bắc Triều Tiên liên tục có những khiêu khích với tôi về vấn đề hạt nhân, họ gọi tôi là “một người phụ nữ buồn cười”. (Hoạt động tuyên truyền của họ nổi tiếng với các phép tu từ lố bịch và quá đáng. Họ gọi Phó Tổng thống Biden là “một tên trộm thô lỗ”; trên mạng còn có một hệ thống chuyên đưa ra những tên gọi buồn cười theo phong cách này.) Mặt khác, chủ tịch Kim có vẻ thân thiện với chồng tôi vì anh ấy từng gửi thư chia buồn sau khi cố chủ tịch Kim Il-sung qua đời năm 1994. Và tất nhiên ông ấy muốn cả thế giới chú ý vào một nhiệm vụ giải cứu được một cựu Tổng thống dẫn đầu. Tôi nói chuyện với Bill về việc này; anh ấy sẵn sàng đi nếu sự tự do của hai nhà báo ấy được đảm bảo, Al Gore và thân nhân của họ cũng hi vọng Bill sẽ thành công. Nhưng một số người ở Nhà Trắng lại phản đối. Có lẽ vì họ không thích Bill từ chiến dịch tranh cử năm 2008, nhưng chủ yếu là do dự trước viễn cảnh phải đáp lại hành động không đẹp của chủ tịch Kim bằng một chuyến đi cấp cao và gây lo lắng cho các đồng minh. Họ cũng có lý: chúng ta phải cân bằng giữa việc giải cứu hai công dân Mỹ vô tội với việc thụt lùi về mặt địa chính trị.
Tôi nghĩ chúng tôi nên thử một lần; họ đã có được những lợi thế cho mình, nhưng cần một lí do để biện minh cho việc thả người. Nếu chúng tôi không xử lý việc này, mọi nỗ lực khác với Bắc Triều Tiên sẽ trở nên vô nghĩa. Khi tôi đề nghị trực tiếp với Tổng thống trong một bữa trưa cuối tháng 7, ông ấy cũng cho rằng đó là cơ hội tốt nhất mà chúng ta có. Dù được coi là một “phái đoàn tư nhân”, Bill và đội ngũ nhỏ của anh ấy được chuẩn bị rất kĩ càng, một phần khá buồn cười của công việc chuẩn bị là họ phải trải qua huấn luyện để không cười khi chụp ảnh chung với chủ tịch Kim. Đầu tháng 8 phái đoàn của Bill lên đường. Sau hơn 20 giờ trên đất Triều Tiên, Bill đã có cuộc gặp trực tiếp với chủ tịch Kim Jong-il và thành công trong việc giải phóng cho hai nữ nhà báo. Họ và Bill cùng trở về California, được chào đón bởi người thân, bạn bè và rất nhiều ống kính truyền hình. Các hình ảnh về cuộc họp cho thấy không người Mỹ nào cười cả. Sau đó Bill đã đùa rằng anh ấy cảm thấy như đang thử vai cho một bộ phim về James Bond. Thành công của Bill là bằng chứng cho việc các chế độ lạc hậu sẽ phản ứng tích cực với những khích lệ hợp lý. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề trước mắt: Vào một đêm tháng 3/2010, tàu Cheonan thuộc Hải quân Hàn Quốc đi tuần tra gần biên giới với Bắc Triều Tiên. Đêm đó rất lạnh và hầu hết 104 thủy thủ đang ngủ, ăn uống hay tập luyện. Đột nhiên một quả ngư lôi không rõ nguồn gốc đâm vào thân tàu và phát nổ, làm tàu Cheonan chìm dần xuống Hoàng Hải, làm 46 thủy thủ thiệt mạng. Vào tháng 5, một đội điều tra của Liên Hợp Quốc đã kết luận rằng một tàu ngầm loại nhỏ của Bắc Triều Tiên có thể đã gây ra cuộc tấn công không báo trước này.Hội đồng bảo an nhất trí lên án vụ tấn công, tuy nhiên Trung Quốc không đồng ý nêu đích danh Bắc Triều Tiên và các phản ứng mạnh hơn. Đây là một trong những mâu thuẫn điển hình của họ: Bắc Kinh tuyên bố ổn định là trên hết, tuy vậy họ vẫn cho phép sự hung hăng diễn ra, dẫn đến sự mất ổn định. Tháng 7/2010, Bob Gates và tôi trở lại Hàn Quốc để gặp những người đồng cấp và chứng tỏ với Bình Nhưỡng rằng Hoa Kỳ vẫn sát cánh bên các đồng minh. Chúng tôi đến làng Bàn Môn Điếm nằm trong Khu vực phi quân sự. Khu vực đó rộng 2,5 dặm, chạy theo vĩ tuyến 38 xuyên suốt bán đảo Triều Tiên. Đây là đường biên giới được canh gác nghiêm ngặt nhất, có lượng mìn lớn nhất và nguy hiểm nhất thế giới. Chúng tôi trèo lên một điểm quan sát bí mật và dùng ống nhòm quan sát phía bên kia. Khu vực hẹp này chia cắt hai thế giới hoàn toàn khác biệt: phía Nam là một vi dụ điển hình cho sự phát triển, một đất nước đã thoát khỏi nghèo đói và chế độ độc tài để đi tới phồn vinh và nền dân chủ. Lãnh đạo đất nước quan tâm tới đời sống người dân, thanh niên lớn lên cùng sự tự do, các cơ hội và tốc độ Internet hàng đầu thế giới. Chỉ cách đó 2.5 dặm, phía Bắc là miền đất của sự sợ hãi và nạn đói; sự tương phản này là một thảm họa. Bob và tôi đi vào trụ sở của lực lượng Liên Hợp Quốc để nghe trình bày một số vấn đề quân sự cơ bản; chúng tôi cũng ghé thăm tòa nhà được chia đôi giữa hai miền Nam Bắc, từng được dùng làm địa điểm đàm phán trong quá khứ; một chiếc bàn họp dài được đặt đúng trên đường biên giới. Khi chúng tôi đi qua, một người lính phía Bắc đứng cách đó không xa nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Có thể anh ấy tò mò, nhưng nếu muốn dọa chúng tôi thì anh ấy đã thất bại. Tôi chăm chú lắng nghe người giới thiệu, còn Bob cười rất tươi. Khoảnh khắc ấy đã được một phóng viên chụp lại và được đăng trên trang nhất của tờ Thời báo New York. Trong cuộc gặp với phía Hàn Quốc, Bob và tôi đã bàn thảo về các bước gây áp lực lên Bắc Triều Tiên và làm giảm các hành động khiêu khích. Chúng tôi đồng ý sẽ có một hoạt động phô trương sức mạnh nhằm trấn an các đối tác và nói rõ rằng nước Mỹ sẽ đảm bảo an ninh trong khu vực. Các biểu hiện của việc đó là những biện pháp trừng phạt mới và cuộc tập trận với Hải quân Hàn Quốc có sự tham gia của tàu sân bay USS George Washington cùng 18 tàu, hơn 200 máy bay và 8000 lính. Bình Nhưỡng và Bắc Kinh đã sôi lên khi nghe tin này; điều đó có nghĩa là thông điệp của chúng tôi đã được nhận. Tối hôm đó, Tổng thống Lee Myung-bak mời chúng tôi dùng bữa ở Nhà Xanh. Ông ấy cảm ơn chúng tôi đã ủng hộ Hàn Quốc trong các thời khắc nguy hiểm. Tổng thống Lee so sánh sự phát triển của đất nước với sự vươn lên của chính bản thân ông từ một tuổi thơ nghèo đói. Phía Nam đã từng nghèo hơn phía Bắc, nhưng nhờ sự giúp đỡ của Mỹ và cộng đồng quốc tế, họ đã thành công trong việc phát triển kinh tế - đây là di sản của vị thế lãnh đạo Mỹ ở châu Á.
Một phần khác của chiến lược xoay trục là việc đưa Ấn Độ tham gia vào sân khấu chính trị ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sự góp mặt đầy đủ của nền dân chủ lớn nhất thế giới sẽ khích lệ nhiều quốc gia tiến tới nền chính trị và kinh tế mở, thay vì chạy theo chủ nghĩa tư bản nhà nước như Trung Quốc. Chuyến đi đầu tiên của tôi đến Ấn Độ là cùng với con gái Chelsea vào năm 1995. Chúng tôi đến thăm một trại trẻ mồ côi của Mẹ Teresa - bà xơ nổi tiếng trên toàn cầu vì tinh thần từ thiện và bác ái. Trại trẻ mồ côi nuôi rất nhiều bé gái bị bỏ rơi do tư tưởng trọng nam khinh nữ. Chính quyền địa phương đã cho đổ bê tông con đường dẫn đến trại vì cuộc viếng thăm của chúng tôi, điều mà các xơ cho rằng là một phép màu nhỏ. Khi Mẹ Teresa mất vào năm 1997, tôi đã dẫn đầu phái đoàn Mỹ đến viếng đám tang ở Kolkata, thể hiện sự tôn trọng đối với sự nghiệp nhân đạo vĩ đại của bà. Quan tài của bà được rước qua các con phố đông nghịt; các Tổng thống, Thủ tướng và lãnh tụ tôn giáo đến đặt những vòng hoa trắng trên giá đỡ. Sau đó bà xơ chủ trì mời tôi đến gặp riêng trong trụ sở Hội truyền giáo từ thiện. Căn phòng nhỏ sơn màu trắng, được thắp sáng bởi nhiều ngọn nến, các xơ đứng thành một vòng tròn và cầu nguyện xung quanh chiếc quan tài. Tôi cúi đầu và cảm ơn Chúa vì đã mang đến người phụ nữ nhỏ nhắn, mạnh mẽ và thánh thiện này. Với tư cách Ngoại trưởng, chuyến thăm đầu tiên của tôi đến Ấn Độ là vào hè năm 2009. Trong vòng 14 năm, kim ngạch thương mại giữa hai nước đã tăng từ gần 10 tỉ USD lên hơn 60 tỉ; dự tính năm 2012 con số đó sẽ là gần 100 tỉ đôla Mỹ. Vẫn còn rất nhiều rào cản và hạn chế, nhưng các doanh nghiệp Mỹ đang dần thâm nhập vào thị trường Ấn Độ, tạo ra công việc và cơ hội cho người dân ở cả hai nước. Các công ty Ấn Độ cũng đầu tư vào Mỹ, và nhiều lao động lành nghề của Ấn Độ đã di chuyển sang Mỹ và thúc đẩy các doanh nghiệp mới của Mỹ. Hơn 100 nghìn du học sinh Ấn Độ sang Mỹ hàng năm; một số trở về quê hương sau khi tốt nghiệp, và số khác ở lại đóng góp cho nền kinh tế Mỹ. Tôi đã gặp nhiều thành phần ở New Delhi: Thủ tướng Manmohan Singh, lãnh đạo doanh nghiệp, nữ doanh nhân, nhà khoa học năng lượng, khí hậu và các sinh viên. Tôi rất vui được gặp bà Sonia Gandhi, người bạn cũ từ thập kỉ 90 và bây giờ là chủ tịch Đảng Quốc đại. bà Gandhi và Thủ tướng Singh đã giải thích khó khăn trong việc kiềm chế trước các vụ đánh bom khủng bố do Pakistan gây ra ở Mumbai tháng 11 năm ngoái. Họ nói rõ rằng nếu có lần thứ hai xảy ra, họ sẽ phải đáp trả một cách đích đáng. Họ gọi cuộc tấn công đó là vụ 26/11 - tương tự với vụ 11/9 của chúng tôi. Để thể hiện sự đoàn kết với người dân Ấn Độ, tôi đã ở khách sạn Cung Taj Mahal Mumbai - một địa điểm nằm trong vụ tấn công đã cướp đi 164 sinh mạng, trong đó gồm 138 người Ấn và 4 người Mỹ. Cùng với việc đến viếng thăm đài tưởng niệm các nạn nhân, tôi muốn gửi đi một thông điệp rằng Mumbai đã hồi phục và sẵn sàng kinh doanh trở lại. Tháng 7/2011, tôi đến thành phố cảng Chennai bên bờ Vịnh Bengal trong cái nóng ngột ngạt. Chennai là một trạm trung chuyển thương mại nằm trên tuyến đường thương mại sôi động hướng tới Đông Nam Á. Chưa Ngoại trưởng Mỹ nào từng đến thăm thành phố này, và tôi muốn cho mọi người thấy Ấn Độ còn nhiều thứ khác ngoài Delhi và Mumbai. Tại thư viện công cộng lớn nhất nước của Chennai, tôi phát biểu về vai trò của Ấn Độ trên trường quốc tế. Ấn Độ có mối quan hệ lịch sử với khu vực Đông Nam Á: từ các nhà buôn đi qua eo biển Malacca cho tới các ngôi đền Hindu rải rác trên khắp khu vực. Chúng tôi hi vọng rằng Ấn Độ sẽ giải quyết được xung đột với Pakistan và tích cực thúc đẩy các giá trị dân chủ và tự do kinh tế trên toàn châu Á; nước Mỹ ủng hộ chính sách “Hướng đông” của Ấn Độ và nếu họ có thể dẫn dắt phía Đông thì càng tốt. Mặc dù vẫn còn những bất đồng nhỏ, các nền tảng chiến lược trong mối quan hệ với Ấn Độ như giá trị dân chủ, liên kết kinh tế và toan tính ngoại giao đã làm lợi ích của hai nước xích lại gần nhau hơn; quan hệ Mỹ - Ấn đang đổi mới, trở nên hoàn thiện hơn.
Thúc đẩy cải cách chính trị cùng với tăng trưởng kinh tế là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược châu Á của nước Mỹ. Chúng tôi muốn biến thế kỉ XXI thành một thời đại của sự thịnh vượng và tự do cho mọi người dân ở châu Á; tôi tin rằng càng tự do thì càng thịnh vượng hơn. Nhiều nước trong khu vực đang phải đau đầu với câu hỏi: Mô hình chính phủ nào là phù hợp nhất với tình hình xã hội của mình? Sự kết hợp giữa chế độ chuyên chế và chủ nghĩa tư bản nhà nước cùng với tốc độ phát triển vũ bão của Trung Quốc là một ví dụ khá hấp dẫn. Chúng tôi thường được nghe rằng nền dân chủ có thể hiệu quả ở nơi khác nhưng không phù hợp với châu Á; các nhà bình luận cho rằng việc này là kết quả của nhiều yếu tố lịch sử và xã hội. Tuy nhiên rất nhiều luận điểm đã chứng minh điều ngược lại. Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Indonesia và Đài Loan đều là những nền dân chủ đã đạt được những thành tựu kinh tế đáng nể, cải thiện cuộc sống cho người dân. Từ 2008 đến 2012, theo số liệu của tổ chức phi chính phủ Freedom House, châu Á là khu vực duy nhất trên thế giới có sự tiến bộ về quyền chính trị và quyền công dân. Ví dụ, vào năm 2010 Philippines đã tổ chức một cuộc bầu cử được đánh giá là trong sạch nhất trong vài lần gần đây, và Tổng thống mới đắc cử Benigno Aquino III đã lập tức khởi động một kế hoạch bài trừ tham nhũng và tăng cường tính minh bạch. Philippines là một đồng minh quý báu của nước Mỹ, và khi một cơn bão lớn tàn phá đất nước này vào cuối năm 2013, Hải quân Mỹ đã nhanh chóng phối hợp với lực lượng địa phương nhằm khắc phục hậu quả. Và chắc chắn phải kể đến Myanmar. Đến giữa năm 2012 phong trào dân chủ đã thắng thế đúng như Tổng thống Indonesia dự đoán, và bà Aung San Suu Kyi đã được bầu vào Quốc hội sau hàng thập kỉ bị giam trong tù. Tuy vậy vẫn còn một số chính quyền từ chối cải cách, thẳng tay xử lí các phần tử chống đối mà điển hình là Bắc Triều Tiên.
Vào tháng 7/2012, tôi có một chuyến công tác dài nữa đến khu vực này; mục tiêu chủ yếu là để nhấn mạnh sự hòa hợp giữa nền dân chủ và sự thịnh vượng. Tôi bắt đầu từ Nhật Bản, và tiếp theo là Việt Nam, Cambodia và Lào - lần đầu tiên trong 57 năm một Ngoại trưởng Mỹ đến thăm Lào. Lào gây cho tôi hai ấn tượng: một đất nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo và đang dần bị Trung Quốc kiểm soát về mặt chính trị và kinh tế. Bắc Kinh đang lợi dụng mối quan hệ này để khai thác các tài nguyên thiên nhiên và tìm kiếm các dự án xây dựng không mang lại nhiều lợi ích cho người dân Lào. Người Lào vẫn đang phải chịu hậu quả từ các chiến dịch đánh bom do Mỹ triển khai trước đây, và là một trong những quốc gia có mật độ bom mìn còn sót lại cao nhất thế giới. Do vậy tôi đã đến thăm một dự án do cơ quan USAID tài trợ nhằm chữa trị và phục hồi cho hàng ngàn người bị mất chân tay do bom mìn; mới có 1% số bom mìn được thu hồi và vô hiệu hóa. Tôi nghĩ rằng nước Mỹ cần có trách nhiệm trong chuyện này, và đã thúc đẩy Quốc hội tăng tài trợ rà phá bom mìn cho Lào gấp 3 lần vào năm 2012.
Một điểm nhấn trong chuyến công tác này là Mông Cổ, nơi tôi đã có một chuyến thăm thú vị năm 1995. Thời điểm đó Mông Cổ rất khó khăn: một đất nước xa xôi, kẹp giữa miền Bắc Trung Quốc và Siberia; sau khi Moscow ngừng viện trợ, nền kinh tế của Mông Cổ gần như sụp đổ. Tuy nhiên tôi đã bị hút hồn bởi vẻ đẹp ở đây: các thảo nguyên rộng lớn cũng như năng lượng, quyết tâm và lòng hiếu khác của người dân địa phương. Trong một căn lều truyền thống được gọi là “ger”, một gia đình du mục đã mời tôi uống một bát sữa ngựa ấm và hơi chua. Tôi đã rất ấn tượng với các sinh viên, nhà hoạt động xã hội và quan chức chính phủ; họ quyết tâm hướng tới một hệ thống chính trị tiến bộ hơn. Từ nay nếu có bất kì ai nghi ngờ về hiệu quả của nền dân chủ, tôi sẽ nói với họ rằng: “Đến Mông Cổ mà xem! Người ta đang biểu tình khi nhiệt độ xuống dưới 0 và đi hàng chục cây số để bỏ phiếu bầu cử kia kìa!”. Sau 17 năm, Mông Cổ đã thay đổi quá nhiều. Công nghiệp khai khoáng bùng nổ dựa vào nhu cầu nguyên liệu thô của nước láng giềng Trung Quốc; nền kinh tế có tốc độ phát triển hơn 17% vào năm 2011, và các chuyên gia dự đoán Mông Cổ sẽ là nước có tốc độ phát triển cao nhất thế giới trong thập kỉ tới. Tuy vẫn còn nhiều người nghèo và lối sống du mục vẫn hiện hữu, nền kinh tế toàn cầu đang đưa Mông Cổ tiến rất nhanh trên con đường phát triển kinh tế. Khung cảnh của thủ đô Ulaanbaatar trước đây rất buồn chán; bây giờ các tòa nhà chọc trời đang vươn cao giữa các “ger” và các tòa nhà kiểu Xô-viết. Trên quảng trường Sukhbaatar, những người lính trong trang phục Mông Cổ truyền thống đang đứng gác gần một cửa hàng Louis Vuitton. Tôi bước vào Tòa nhà Chính phủ và thấy một bức tượng Thành Cát Tư Hãn lớn - người sáng lập đế chế lớn nhất trong lịch sử loài người vào thế kỉ XIII. Tôi gặp Tổng thống Tsakhiagiin Elbegdorj trong một “ger” truyền thống nằm trong một tòa nhà có từ thời Stalin, và bàn luận về một nền kinh tế phát triển rất nhanh của châu Á; một biểu hiện rõ ràng của sự giao thoa giữa các thế giới! Từ năm 1995 nền dân chủ Mông Cổ đã vận hành tốt, với 6 cuộc bầu cử Quốc hội diễn ra tốt đẹp, các cuộc tranh luận chính trị trên truyền hình diễn ra thường xuyên. Một bộ luật tự do thông tin mới được thông qua đã giúp người dân hiểu rõ hơn về hoạt động của chính phủ. Tuy vậy, sự bùng nổ trong ngành khai khoáng đã tạo ra nhiều vấn đề về tham nhũng và bất bình đẳng, cũng như tăng sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Mông Cổ đang đứng giữa hai ngã rẽ: tiếp tục con đường dân chủ và sử dụng các tài nguyên để nâng cao mức sống cho người dân, hay đi vào quỹ đạo của Bắc Kinh và gánh chịu các hậu quả tai hại của “lời nguyền tài nguyên”; tôi hi vọng họ sẽ bước trên con đường thứ nhất. Thời điểm này rất phù hợp: Đang có một hội nghị của Tổ chức Cộng đồng Dân chủ ở Ulaanbaatar. Tổ chức này được thành lập năm 2000 bởi Ngoại trưởng Albright để giúp đỡ các nền dân chủ mới thành lập, đặc biệt là các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Đây là một cơ hội để củng cố các bước tiến của Mông Cổ và gửi đi một thông điệp về tầm quan trọng của dân chủ và nhân quyền từ ngay sân sau của Trung Quốc - trung tâm của phong trào bài dân chủ. Giải Nobel Hòa bình 2010 đã được trao cho nhà hoạt động nhân quyền Lưu Hiểu Ba, tuy nhiên ông ấy vắng mặt do đang bị chính quyền Trung Quốc giam giữ. Tôi đã lên tiếng cảnh báo đó là “một biểu tượng cho sự thất hứa của nước lớn”; tình hình năm 2011 trở nên tồi tệ hơn, với hàng chục luật sư công, tác giả, nghệ sĩ, trí thức và nhà hoạt động xã hội bị bắt, mà nổi bật nhất là nghệ sĩ nổi tiếng Ngải Vị Vị. Trong bài phát biểu ở Ulaanbaatar, tôi đã giải thích tại sao tương lai dân chủ là đúng đắn nhất với châu Á. Trung Quốc và một số nước tranh luận rằng nền dân chủ sẽ đe dọa đến sự ổn định và gây hỗn loạn trong xã hội, nhưng chúng tôi có nhiều bằng chứng cho thấy nền dân chủ góp phần gìn giữ sự ổn định. Một ảo tưởng an ninh có thể được tạo ra bởi sự đàn áp chính trị và kiểm duyệt gắt gao; tuy vậy mong muốn tự do của người dân sẽ vượt lên trên hết. Ngược lại, nền dân chủ cung cấp những bản lề mấu chốt cho xã hội: người dân có thể chọn lựa lãnh đạo, trao quyền cho họ đưa ra các quyết định vì lợi ích quốc gia, và cho phép các phe thiểu số trình bày quan điểm của mình. Một luận điểm khác mà tôi muốn phản bác là dân chủ chỉ dành cho các nước giàu, các nước đang phát triển phải tập trung vào tăng trưởng trước. Trung Quốc thường được coi là ví dụ điển hình của việc phát triển kinh tế mà không cần cải cách chính trị, tuy vậy tôi cho rằng đó là một lí luận thiển cận và không bền vững. Không thể có sự tự do kinh tế mà không có tự do chính trị; không có sự đổi mới tư tưởng và luật pháp thì sự sáng tạo trong kinh doanh sẽ không thể tồn tại; các nước muốn mở rộng nền kinh tế mà vẫn áp bức chính trị sẽ phải trả giá rất đắt. Tôi đảm bảo rằng nước Mỹ sẽ là một đối tác tích cực của bất kì nước nào ủng hộ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản khác. Tôi đã nhiều lần nói “Đến Mông Cổ mà xem!”, và rất mừng là nhiều nhà hoạt động dân chủ đã tới đó. Một bài báo trên tờ Bưu điện Washington cho rằng bài phát biểu của tôi đã “tiếp thêm hi vọng rằng chính sách xoay trục ở châu Á không phải là một bước khởi động đơn thuần mà sẽ trở thành một cách tiếp cận đa tầng nấc để tương ứng với sự trỗi dậy phức tạp của Trung Quốc.” Tuy vậy các nhà kiểm duyệt ở Trung Quốc đã xóa sạch các lời nói của tôi.
Phần 3
Mỹ-Trung – cọ xát chiến lược
Vào năm 1972, Tổng thống Richard Nixon đã có chuyến thăm lịch sử đến Trung Quốc; giống như nhiều người Mỹ khác, đó là lần đầu tiên tôi có một cái nhìn thực sự về đất nước ấy. Tôi và Bill đang là sinh viên luật và không có TV, do đó chúng tôi ra ngoài thuê một chiếc với dàn ăngten râu. Chúng tôi vác nó về nhà và bật lên hàng tối để xem phong cảnh đất nước lần đầu tiên xuất hiện từ khi chúng tôi ra đời. Tôi đã rất phấn khích và tự hào bởi những gì nước Mỹ đã đạt được trong “một tuần thay đổi thế giới”, theo lời của Tổng thống Nixon. Nhìn lại thì thấy cả hai bên đã chấp nhận những mạo hiểm rất lớn trong thời gian cao điểm của Chiến tranh lạnh. Những hậu quả nghiêm trọng về mặt chính trị đã chờ đợi nguyên thủ của cả hai bên nếu tỏ ra yếu đuối hay “thông cảm với chủ nghĩa cộng sản”. Tuy vậy Ngoại trưởng Henry Kissinger và Thủ tướng Chu Ân Lai - hai kiến trúc sư chính của chuyến thăm - đã tính toán rằng những lợi ích tiềm năng vượt xa các mạo hiểm (Tôi đã nói đùa với Henry rằng ông ấy thật may mắn vì thời đó chưa có điện thoại thông minh và các mạng xã hội khi ông ấy bí mật đến thăm Bắc Kinh lần đầu tiên; trong thời buổi hiện nay thì chắc chắn không thể giữ bí mật đó được). Giờ đây chúng tôi cũng tính toán y như vậy khi đối phó với các quốc gia khác biệt quan điểm nhưng cần phải hợp tác, hay khi cần tránh để cho bất đồng và cạnh tranh dẫn đến xung đột. Mối quan hệ Mỹ - Trung vẫn tồn tại nhiều thử thách: hai nước lớn, phức tạp với sự khác biệt rõ rệt về lịch sử, hệ thống chính trị và tư tưởng, trong khi nền kinh tế và tương lai đang ngày càng trở nên khăng khít. Đây là một mối quan hệ không thể xếp vào bạn bè hay đối thủ; có thể so sánh chúng ta như đang đi vào một vùng biển chưa được nghiên cứu. Để đi đúng lịch trình, tránh các bãi cạn và xoáy nước thì cần một cái la bàn chuẩn xác và sự linh hoạt để thường xuyên thay đổi đường đi, nhiều khi còn phải chịu thiệt thòi và đau đớn. Nếu chúng ta ép quá mạnh về một mặt thì sẽ làm tổn hại đến các mặt khác. Bên cạnh đó nếu chúng ta thay đổi hay phản ứng quá nhanh thì sẽ tạo ra sự căng thẳng và hung hăng. Ngoài ra, những người đồng cấp ở Trung Quốc cũng có những áp lực và nhu cầu riêng của mình; nếu cả hai bên học theo tấm gương của hai nhà ngoại giao kiệt xuất trong lịch sử (Henry Kissinger & Chu Ân Lai) thì khả năng tăng cường hiểu biết, duy trì lợi ích và phát triển quan hệ là rất cao.
Chuyến đi đầu tiên của tôi đến Trung Quốc vào năm 1995 là một cuộc viếng thăm đáng nhớ; trong Hội nghị thế giới về phụ nữ lần thứ 4, tôi đã tuyên bố: “Nhân quyền và quyền phụ nữ là một. Tự do có nghĩa là con người có quyền tụ họp, tổ chức các cuộc tranh luận công khai. Tự do có nghĩa là tôn trọng quan điểm của những người bất đồng với chính phủ. Tự do có nghĩa là không được giam giữ, đối xử tàn tệ với những người trình bày quan điểm và ý kiến một cách hòa bình”. Chính phủ Trung Quốc đã không cho phát sóng bài phát biểu của tôi trên cả truyền hình và radio. Bài phát biểu chủ yếu của tôi nói về quyền phụ nữ, những tôi cũng muốn gửi một thông điệp đến chính phủ Trung Quốc; họ đã cấm các phụ nữ từ Tây Tạng và Đài Loan đến tham gia, cũng như ngăn chặn một cuộc họp của các nhà hoạt động xã hội diễn ra gần Bắc Kinh trước đó. Đó là những lời lẽ rất cứng rắn được nói ngay trên đất Trung Quốc; một số quan chức Mỹ đã khuyên tôi nên sử dụng một bài khác hoặc không phát biểu nữa. Nhưng tôi thấy việc bảo vệ các giá trị dân chủ và nhân quyền ở một nơi như vậy là rất cần thiết. Tháng 6/1998, tôi trở lại Trung Quốc và ở lại lâu hơn; cả gia đình tôi cùng đi trong một chuyến thăm cấp nhà nước chính thức. Họ đề nghị đón tiếp chúng tôi ở quảng trường Thiên An Môn - nơi đã diễn ra thảm kịch năm 1989. Lúc đầu Bill định từ chối, nhưng sau anh ấy nghĩ nên tỏ ra là một người khách lịch sự. Để đáp lại, họ đã làm chúng tôi ngạc nhiên với việc phát sóng hoàn toàn cuộc hội đàm của Bill với Chủ tịch Giang Trạch Dân, trong đó có một số vấn đề nhạy cảm như nhân quyền và Tây Tạng. Họ cũng cho phép phát sóng bài nói chuyện của Bill ở Đại học Bắc Kinh với câu nói “Tự do thật sự không phải chỉ có tự do kinh tế”. Tôi trở về với niềm tin rằng nếu Trung Quốc dần dần thực hiện quá trình cải cách và hiện đại hóa, họ có thể trở thành một cường quốc có những đóng góp tích cực và một đối tác quan trọng của nước Mỹ. Nhưng điều đó là không dễ dàng, và nước Mỹ phải thật khôn khéo và cảnh giác khi tương tác với Trung Quốc. Tháng 2/2009, tôi đến thăm Trung Quốc với tư cách Ngoại trưởng. Mục tiêu chính của chuyến thăm là xây dựng một mối quan hệ bền vững trước các tranh chấp và căng thẳng không thể tránh khỏi. Tôi muốn đưa Trung Quốc vào chiến lược tổng quát ở châu Á, đưa Bắc Kinh tham gia vào các cơ chế đa phương khu vực và hành xử với các nước láng giềng dựa trên các quy tắc được nhất trí. Ngoài ra, tôi cũng muốn Trung Quốc biết họ không phải là mối quan tâm duy nhất của chúng ta ở châu Á. Nước Mỹ sẽ không hi sinh các giá trị cũng như các mối quan hệ đồng minh truyền thống để làm hài lòng Trung Quốc; họ còn lâu mới vượt được Mỹ và trở thành quốc gia mạnh nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương, dù đang phát triển rất nhanh về mặt kinh tế và quân sự.
Trước khi đến Bắc Kinh tôi dừng chân ở Hàn Quốc và nói chuyện với đoàn báo chí tháp tùng. Tôi thông báo rằng các chủ đề chính sẽ là hợp tác về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, biến đổi khí hậu và các vấn đề an ninh như Bắc Triều Tiên và Afghanistan; các vấn đề nhạy cảm như Đài Loan, Tây Tạng và nhân quyền cũng sẽ được đề cập nhưng không có nhiều hi vọng lắm. Các nhà ngoại giao Mỹ đã nêu những vấn đề trên hàng chục năm, nhưng phản ứng của phía Trung Quốc vẫn không thay đổi. Tôi đã có một cuộc tranh cãi gay gắt với Chủ tịch Giang Trạch Dân trong buổi chiêu đãi ở Nhà Trắng tháng 10/1997. Trước đó tôi đã gặp ngài Đạt Lai Lạt Ma để bàn luận về tình hình ở Tây Tạng, và tôi đã yêu cầu chủ tịch Giang giải thích về sự áp bức của Trung Quốc. Ông ấy trả lời: “Người Trung Quốc đã giải phóng người Tây Tạng và đem lại cuộc sống ấm no cho họ”. - “Nhưng còn các truyền thống và quyền lựa chọn tôn giáo của họ thì sao?”. Ông ấy quả quyết rằng Tây Tạng là một phần của Trung Quốc và muốn biết tại sao người Mỹ lại ủng hộ những “phù thủy” đó; người Tây Tạng là những nạn nhân của tôn giáo, giờ đây họ đã được giải thoát khỏi chế độ phong kiến. Do đó tôi biết rõ những gì các quan chức Trung Quốc sẽ nói khi tôi đưa ra những vấn đề này. Vì mối quan hệ với Trung Quốc rất rộng lớn và phức tạp, sự bất đồng quan điểm về nhân quyền cũng không gây ảnh hưởng đến việc hợp tác trên các bình diện khác. Chúng ta phải đấu tranh vì nhân quyền cùng lúc với hợp tác kinh tế, biến đổi khí hậu và cấm phổ biến vũ khí hạt nhân - cách tiếp cận của Mỹ từ thời Nixon. Tuy nhiên các nhận xét của tôi đã được diễn giải là chính quyền Obama không đặt trọng tâm vào vấn đề nhân quyền và Trung Quốc có thể bỏ qua vấn đề đó. Đây là một bài học quan trọng: bây giờ tôi là nhà ngoại giao đại diện cho nước Mỹ, và một lời nói của tôi có thể tạo ra nhiều sóng gió trong giới truyền thông. Đã hơn 10 năm rồi tôi mới trở lại Trung Quốc, và chuyến đi xuyên qua Bắc Kinh giống như một bộ phim tua nhanh vậy. Trước đây chỉ có một vài tòa nhà cao tầng; giờ đây các tổ hợp Olympic và tòa nhà tập đoàn chiếm hết bầu trời; các con phố trước đây toàn là xe đạp Bồ câu thì giờ kín đặc toàn ôtô. Tôi đã gặp một nhóm các nhà hoạt động xã hội nữ mà tôi quen từ 1998. Lúc đó Ngoại trưởng Albright và tôi đã đến một trạm cứu tế xập xệ để nghe họ kể về những nỗ lực đòi quyền sở hữu cho phụ nữ, có tiếng nói trong việc kết hôn và li hôn và được đối xử bình đẳng như một công dân. 10 năm sau, kích cỡ và phạm vi hoạt động của họ đã tăng lên nhiều, giờ đây họ làm việc về cả quyền kinh tế, sức khỏe và môi trường. Một trong số họ là bác sĩ Cao Diệu Khiết 82 tuổi. Bà đã bị chính phủ Trung Quốc nhắc nhở do nói chuyện công khai về bệnh AIDS ở Trung Quốc và phanh phui một vụ bê bối truyền máu chứa mầm bệnh. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi chú ý rằng bà ấy từng bị bó chân, và rất xúc động vì câu chuyện của bà ấy. Bác sĩ Cao đã sống qua cuộc nội chiến, Cách mạng văn hóa, các cuộc bắt bớ và chia rẽ gia đình; bà không bao giờ từ bỏ quyết tâm giúp đỡ người dân tránh khỏi đại dịch HIV/AIDS. Năm 2007 tôi đã đề nghị Chủ tịch Hồ Cẩm Đào cho phép bác sĩ Cao đến Washington để nhận giải thưởng sau khi quan chức địa phương từ chối. hai năm sau, bà ấy vẫn đang bị chính phủ gây áp lực, tuy vậy bác sĩ Cao vẫn muốn tiếp tục ủng hộ quá trình minh bạch hóa và nhận trách nhiệm. Bà ấy nói: “Tôi 82 tuổi rồi, không còn sống được bao lâu nữa. Tôi chằng còn gì để sợ hãi, và vấn đề này rất quan trọng”. Sau cuộc viếng thăm không bao lâu, bác sĩ Cao bị trục xuất khỏi Trung Quốc; bà ấy đến sống ở New York, tiếp tục viết và tuyên truyền chống lại bệnh AIDS.
Trong chuyến thăm lần này, tôi dành hầu hết thời gian để gặp gỡ và làm quen với các quan chức cấp cao của Trung Quốc. Tôi đã dùng bữa trưa cùng Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc ở Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài - nơi Tổng thống Nixon đã nghỉ lại trong chuyến đi lịch sử của mình. Ủy viên Đới và Ngoại trưởng Dương Khiết Trì là những đối tác chính của tôi trong chính phủ Trung Quốc (Ủy viên Quốc vụ viện là cấp ở giữa Phó Thủ tướng và Bộ trưởng). Là một nhà ngoại giao lão luyện và thân cận với Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Ủy viên Đới hiểu rất rõ cấu trúc quyền lực ở Trung Quốc. Ông ấy rất tự hào về quá trình vươn lên từ nông thôn đến một vị trí cao cấp trong chính phủ; ông ấy không cao to nhưng rất khỏe mạnh và chắc chắn, một phần là nhờ tập thể dục thường xuyên và những cuộc đi bộ xa. Henry Kissinger từng nói với tôi rằng ông ấy đánh giá rất cao Đới Bỉnh Quốc, đó là một trong những nhà ngoại giao Trung Quốc thú vị và cởi mở nhất mà ông ấy từng gặp. Ủy viên Đới nắm rất chắc các vấn đề lịch sử, triết học và thời sự; ông ấy còn nhắc đến câu thành ngữ mà tôi đã sử dụng ở Viện Châu Á “cùng hội cùng thuyền”. Khi tôi cho rằng cả Mỹ và Trung Quốc phải đưa ra một câu trả lời mới cho câu hỏi muôn thuở về sự cạnh tranh giữa hai cường quốc cũ và mới, ông ấy đồng ý hoàn toàn và liên tục nhắc lại băn khoăn của tôi. Trong lịch sử thì tình huống như vậy thường dẫn đến xung đột, do vậy chúng tôi cần tránh kết cục đó bằng cách giữ mức độ cạnh tranh ở mức vừa phải và thúc đẩy hợp tác hết mức có thể. Ủy viên Đới và tôi nói chuyện rất hợp và chúng tôi đã giữ liên lạc thường xuyên. Thỉnh thoảng tôi bị giáo huấn rất lâu về những sai lầm của Mỹ ở châu Á; có lúc chúng tôi lại nói say sưa về nhu cầu chỉnh đốn mối quan hệ Mỹ - Trung để tạo cơ sở cho tương lai. Trong một chuyến thăm, Ủy viên Đới đã tặng những món quà nhỏ cho Chelsea và mẹ tôi - điều nằm ngoài mọi quy tắc lễ tân ngoại giao thông thường. Để trả lễ, khi ông ấy đến Washington tôi đã gửi một món quà cho cháu gái duy nhất của ông ấy, và ông ấy tỏ ra rất hài lòng. Ủy viên Đới cho tôi xem ảnh của cháu và nói: “ Đây là lí do để chúng ta phấn đấu”. Tôi thấy rất xúc động: phúc lợi dành cho trẻ em là lí do đầu tiên để tôi dấn thân vào ngành dịch vụ công ích. Là Ngoại trưởng, tôi có cơ hội để làm cho thế giới trở nên an toàn, tốt đẹp hơn vì trẻ em trên toàn thế giới - đó là cơ hội và trách nhiệm lớn nhất của một đời người. Sự đồng cảm này với Ủy viên Đới đã tạo nên mối liên kết chặt chẽ giữa chúng tôi.
Ngoại trưởng Dương Khiết Trì trước đây là một phiên dịch, và dần dần thăng tiến trong ngành ngoại giao. Khả năng tiếng Anh xuất sắc của ông ấy giúp chúng tôi có thể có những cuộc đối thoại dài và thú vị khi họp cũng như qua điện thoại. Ông ấy gìn giữ rất cẩn thận hình tượng của một nhà ngoại giao,tuy vậy tôi hiểu khá rõ con người thật của ông ấy. Một lần ông ấy kể về tuổi thơ ở Thượng Hải: phòng học không có lò sưởi, ông ấy ngồi run rẩy trong lớp, tay cóng đến nỗi không cầm được bút. Hành trình từ ngôi trường lạnh lẽo đến Bộ Ngoại giao là niềm tự hào rất lớn của Ngoại trưởng Dương; ông ấy là một người theo chủ nghĩa quốc gia cứng rắn, và chúng tôi đã có nhiều cuộc trao đổi khá căng thẳng về các chủ đề như biển Đông, Bắc Triều Tiên và tranh chấp lãnh thổ với Nhật Bản. Trong một cuộc trao đổi khuya gần như là cuối cùng của năm 2012, ông ấy bắt đầu ca ngợi các thành tựu to lớn của Trung Quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực thể thao. Olympic London vừa kết thúc được gần 1 tháng, và tôi đã nhẹ nhàng nói rằng Mỹ đã đạt được nhiều huy chương nhất. Ông ấy cho rằng Trung Quốc đã “thiếu may mắn” do chấn thương của ngôi sao bóng rổ Yao Ming; và nói đùa rằng nếu có một Olympic ngoại giao thì Mỹ chắc chắn sẽ giành được huy chương cho môn “quãng đường đi nhiều nhất”. Trong cuộc gặp đầu tiên vào tháng 2/2009, ông ấy đã đề cập đến một vấn đề khá bất ngờ: Họ chuẩn bị tổ chức một triển lãm quốc tế rất lớn vào tháng 5/2010; mọi nước trên thế giới có một gian hàng riêng để trưng bày các giá trị văn hóa và truyền thống đặc sắc của mình. Chỉ có 2 nước là chưa tham gia: quốc gia nhỏ bé Andorra và Hoa Kỳ. Người Trung Quốc cho đó là một cử chỉ thiếu tôn trọng, và biểu hiện sự đi xuống của nước Mỹ. Tôi khá bất ngờ về việc này và đảm bảo với Ngoại trưởng Dương rằng nước Mỹ sẽ tham gia tích cực. Hóa ra gian hàng của Mỹ không tìm được tiền tài trợ, bị chậm tiến độ và gần như không thể hoàn thành được; việc này sẽ ảnh hưởng xấu đến vị thế và giá trị Mỹ ở châu Á. Do vậy tôi đã ưu tiên việc gây quỹ và tìm ủng hộ từ khối tư nhân để hoàn thành gian hàng đó. Chúng tôi đã thành công: hàng triệu du khách đến từ khắp nơi trên thế giới đã thấy một gian hàng Mỹ thể hiện các giá trị cơ bản nhất của đất nước: sự kiên trì, đổi mới và đa dạng. Nhưng tôi ấn tượng nhất với các sinh viên Mỹ tình nguyện làm việc chủ trì và hướng dẫn. Họ là đại diện cho các tầng lớp của xã hội Mỹ, và đều nói được tiếng Trung Quốc. Nhiều khách Trung Quốc ngạc nhiên khi nghe thấy những người Mỹ nói tiếng Trung tốt như vậy; họ dừng chân nói chuyện, hỏi thăm và cười đùa liên tục. Các mối liên hệ cá nhân đó có khi còn hiệu quả hơn những cuộc gặp gỡ ngoại giao hay hội nghị cấp cao.
Trong chuyến thăm năm 2009, tôi cũng có cơ hội được gặp riêng Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo, và sau này là mười mấy cuộc gặp nữa. Các lãnh đạo cấp cao trầm tính hơn và không trò chuyện thoải mái, cởi mở như cấp dưới. Vị trí càng cao thì càng phải chú ý đến hình tượng, sự điềm tĩnh và tôn trọng lẫn nhau. Họ không muốn có bất ngờ gì xảy ra, ăn mặc phải thật nghiêm túc. Với tôi họ tỏ ra cẩn thận và lịch sự, thậm chí còn có phần căng thẳng; họ đang nghiên cứu tôi và ngược lại. Chủ tịch Hồ tỏ ra rất vui vì tôi quyết định đến thăm Trung Quốc sớm như vậy. Ông ấy là người nắm vị trí số 1 ở Trung Quốc nhưng không tạo ra cảm giác áp đặt như những người tiền nhiệm Đặng Tiểu Bình hay Giang Trạch Dân, chủ tịch Hồ giống như một giám đốc ít quyền lực. Không biết được mức độ kiểm soát thực sự của ông ấy trong Đảng là như thế nào, đặc biệt là với quân đội. Thủ tướng Ôn Gia Bảo có biệt danh là “Ông nội” với hình ảnh hiền lành và bình tĩnh thường thấy. Tuy vậy, ông ấy khá sắc sảo trong tranh luận, đặc biệt như khi cho rằng Mỹ phải chịu trách nhiệm với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hay phủ nhận các phê phán nhằm vào chính sách của Trung Quốc. Trong các cuộc gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị biến cuộc đối thoại kinh tế Mỹ - Trung từng được cựu Bộ trưởng Tài chính Hank Paulson đề ra thành một cuộc đối thoại chiến lược, với mục đích đưa ra thêm nhiều vấn đề và thu hút các chuyên gia và quan chức của cả hai phái. Các cuộc gặp mặt thường xuyên dưới sự chỉ đạo của một ủy ban cao cấp sẽ đem lại sự hợp tác trên nhiều lĩnh vực mới và góp phần xây dựng sự tin tưởng lẫn nhau. Những phương thức liên lạc rõ ràng sẽ làm giảm khả năng hiểu nhầm dẫn đến gia tăng căng thẳng. Trong một bữa trưa đầu năm ở Bộ Ngoại giao, tôi đã bàn luận về việc này với Tim Geithner - người kế nhiệm Hank Paulson ở Bộ Tài chính. Tôi đã biết Tim từ khi anh ấy còn làm Chủ tịch Ngân hàng dự trữ New York; Tim có kinh nghiệp rất phong phú ở châu Á và nói được một chút tiếng Trung - một đối tác lí tưởng để làm việc với Trung Quốc. Tim không nghĩ đề nghị của tôi là nhằm xâm nhập vào địa bàn của Bộ Tài chính; anh ấy nghĩ đây là một cơ hội để kết hợp sức mạnh của cả hai bộ, đặc biệt là trong thời điểm khủng hoảng kinh tế như hiện nay. Nếu phía Trung Quốc đồng ý thì Tim và tôi sẽ cùng tham gia vào cuộc đối thoại này. Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho sự do dự, hoặc thậm chí là từ chối; người Trung Quốc thường không hứng thú bàn luận về các vấn đề chính trị nhạy cảm. Tuy nhiên họ lại quan tâm đến việc trao đổi cấp cao với Mỹ và xây dựng một “quan hệ hợp tác rõ ràng và tích cực”, theo lời của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Sau này mô hình đối thoại chiến lược & kinh tế đã được chúng tôi áp dụng với các nước mới nổi trên thế giới, từ Ấn Độ tới Nam Phi và Brazil.
Trong mấy thập kỉ gần đây, chính sách đối ngoại của Trung Quốc được đề ra dựa trên đường lối của Đặng Tiểu Bình: “Lặng lẽ quan sát, bình tĩnh đối phó, giữ vững tư thế, quyết không đi đầu, làm nên chiến tích”. Lên nắm quyền sau cái chết của Chủ tịch Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình cho rằng Trung Quốc chưa đủ mạnh để tham gia vào sân khấu thế giới, và chiến lược “ẩn mình chờ thời” sẽ giúp giảm thiểu xung đột với các nước láng giềng trong khi tập trung phát triển kinh tế. Bill và tôi đã gặp ông Đặng khi ông đến thăm Mỹ năm 1979; tôi chưa từng gặp một nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đó, và cách ông ấy ứng xử với các vị khách Mỹ ở Dinh thống đốc Georgia là rất ấn tượng, thể hiện mong muốn bắt đầu cải cách của đất nước. Đến năm 2009, một số quan chức Trung Quốc (đặc biệt trong quân đội) không còn kiềm chế được như vậy. Họ cho rằng nước Mỹ - từ lâu là nước mạnh nhất trong khu vực châu Á & Thái Bình Dương - đang rút lui khỏi khu vực nhưng vẫn quyết tâm chèn ép sự trỗi dậy tất yếu của Trung Quốc, và giờ đây cần có một cách tiếp cận cứng rắn hơn. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan và chủ nghĩa dân tộc lên cao cũng là nguồn gốc cho sự tự tin và các hành động hung hăng ở châu Á. Tháng 11/2009, Tổng thống Obama đến thăm Bắc Kinh và được tiếp đón khá lạnh nhạt. Người Trung Quốc yêu cầu kiểm soát hầu hết các buổi xuất hiện của ông ấy, không chịu bàn luận về nhân quyền hay việc định giá tiền tệ và đòi đưa ra những bài viết về vấn đề ngân sách của Mỹ. Tờ “Thời báo New York” miêu tả cuộc họp báo giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào là “đi cà kheo”. Nhiều nhà quan sát cho rằng đây là một giai đoạn mới trong quan hệ Mỹ - Trung, với một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và kiên quyết hơn, không còn “ẩn mình chờ thời” mà trở thành “phô trương và lấn tới”. Nơi biểu hiện rõ nhất sự cứng rắn của Trung Quốc là trên mặt biển. Trung Quốc và Việt Nam, Philippines, Nhật Bản đã có những tranh chấp lãnh thổ tồn tại qua nhiều thế hệ; họ tuyên bố chủ quyền với các chuỗi đảo san hô, bãi đá, bãi cạn và đảo hoang. Trên biển Đông, Trung Quốc và Việt Nam đã có những va chạm từ thập niên 70 và 80 thế kỉ trước; những năm 1990 thì Trung Quốc tranh chấp với người Philippines. Trên biển Hoa Đông thì chuỗi 8 hòn đảo hoang Senkaku/Điếu Ngư là mục tiêu tranh chấp giữa hai nước Trung - Nhật trong nhiều năm, và giờ đây xung đột có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Tháng 11/2013, Trung Quốc tuyên bố thành lập một vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) bao trùm gần hết biển Hoa Đông, và yêu cầu mọi máy bay quốc tế tuân thủ theo các quy chế. Mỹ và các nước đồng minh từ chối công nhận cái gọi là ADIZ đó, và chúng tôi vẫn cho các máy bay quân sự tuần tra trong phạm vi không phận quốc tế. Xung đột thì không mới nhưng căng thẳng ngày càng tăng. Kinh tế và thương mại châu Á đang trong thời kì phát triển mạnh, gần một nửa hàng hóa thương mại của thế giới đi qua biển Đông, trong đó có nhiều tàu liên quan đến Hoa Kỳ. Sự phát hiện các mỏ dầu khí và ngư trường mới đã làm các vùng nước và đảo nhỏ trở nên hấp dẫn; các tranh chấp cũ cộng với triển vọng mới tạo nên sự va chạm. Trong năm 2009 và 2010, các nước láng giềng cảm thấy lo ngại với động thái tăng cường sức mạnh hải quân và khẳng định yêu sách với các vùng biển đảo của Trung Quốc. Các hành động này trái ngược hẳn với hi vọng của cựu phó Ngoại trưởng (sau này là Chủ tịch Ngân hàng Thế giới) Robert Zoellick trong một bài phát biểu nổi tiếng năm 2005; ông ấy muốn Trung Quốc trở thành một “chủ thể có trách nhiệm”. Thay vào đó, họ trở thành một “chủ thể xấu tính”, lúc thì tỏ ra là một nước lớn đứng đắn, lúc thì áp đặt ý nghĩ của mình lên các nước xung quanh bằng các biện pháp cứng rắn.
Vào tháng 3/2009, hai tháng sau khi chính quyền Obama lên nắm quyền, 5 tàu Trung Quốc đã tiếp cận tàu Impeccable của Hải quân Mỹ cách đảo Hải Nam khoảng 75 dặm. Họ yêu cầu tàu Mỹ rời khỏi lãnh hải của họ, tuy nhiên tàu Impeccable trả lời rằng họ đang ở trong vùng biển quốc tế và có quyền tự do hàng hải. Các thủy thủ Trung Quốc đã ném những miếng gỗ xuống nước để cản tàu Mỹ, và họ đáp trả bằng cách phun vòi rồng vào tàu Trung Quốc. Nghe giống như truyện tranh, nhưng cuộc va chạm này lại có thể dẫn đến một cuộc đối đầu nguy hiểm. Trong 2 năm sau đó, các vụ đối mặt trên biển giữa Trung Quốc với Nhật, Việt Nam và Philippines luôn có nguy cơ vượt ra khỏi tầm kiểm soát; phải hành động ngay lập tức. Trung Quốc muốn giải quyết các tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng trên bình diện đa phương, vì trong tình huống đó họ thường mạnh hơn đối thủ. Trong những cơ chế đa phương thì các nước nhỏ có thể đoàn kết với nhau, và ảnh hưởng của Trung Quốc sẽ giảm xuống; rõ ràng là hầu hết các nước muốn giải quyết theo cách này. Họ cho rằng có quá nhiều tuyên bố và lợi ích chồng lấn lên nhau, rất khó để giải quyết ngay lập tức; tập trung mọi đối tượng vào một căn phòng và cho họ cơ hội để trình bày quan điểm là cách tốt nhất để tạo ra một giải pháp chấp nhận được. Tôi nhất trí với quan điểm này; nước Mỹ không có tuyên bố chủ quyền nào trong khu vực, không theo phe nào và không ủng hộ các nỗ lực đơn lẻ. Chúng tôi muốn bảo vệ các lợi ích bằng cách đảm bảo tự do hàng hải, thương mại biển và tuân thủ luật pháp quốc tế. Và còn các nghĩa vụ theo hiệp ước với Nhật Bản và Philippines. Khi đến dự cuộc Đối thoại chiến lược & ngoại giao vào tháng 5/2010, tôi cảm thấy rất lo lắng khi các lãnh đạo Trung Quốc công nhận các tuyên bố chủ quyền ở biển Đông là “lợi ích cốt lõi” - ngang hàng với các vấn đề cũ như Đài Loan và Tây Tạng. Họ cảnh báo rằng Trung Quốc sẽ không cho phép bên ngoài can thiệp; sau đó cuộc họp bị ngắt quãng khi một đô đốc bên họ đứng dậy và ngang nhiên cáo buộc Mỹ đang cố gắng bao vây và áp chế Trung Quốc. Điều này rất ít xảy ra trong các cuộc họp được sắp đặt cẩn thận, và các nhà ngoại giao Trung Quốc cũng có vẻ rất bất ngờ (dù tôi nghĩ rằng đô đốc đó đã được lãnh đạo Đảng và quân đội cho phép từ trước).
Các cuộc đối đầu trên biển Đông trong hai năm đầu của chính quyền Obama đã càng làm tôi tin tưởng rằng chiến lược của Mỹ ở châu Á cần tập trung vào việc nâng cấp các cơ chế đa phương trong khu vực. Các cơ chế hiện có chưa đủ khả năng để giải quyết các tranh chấp giữa các nước; với các nước nhỏ thì khu vực này giống như miền Tây hoang dã - một vùng biên không có luật pháp, sức mạnh và quyền lực được đặt lên trên hết. Mục tiêu của chúng tôi không chỉ là làm dịu các điểm nóng trên biển mà còn củng cố các hệ thống quy tắc và tổ chức quốc tế trong khu vực nhằm ngăn ngừa các mâu thuẫn trong tương lai, hướng tới trật tự và sự ổn định lâu dài như ở châu Âu hiện nay. Trên chuyến bay về Mỹ, tôi đã bàn luận với đội ngũ của mình. Tôi cho rằng Trung Quốc đang quá trớn: thay vì tận dụng bối cảnh khủng hoảng kinh tế và sự vắng mặt tương đối của Mỹ để xây dựng quan hệ tốt với các nước láng giềng, họ lại tỏ ra hung hăng và làm dấy lên lo ngại sâu sắc ở các nước đó. Khi các nguy cơ an ninh hay kinh tế chưa hiện rõ, các quốc gia thường không chú ý đến tác dụng của các liên minh phòng thủ chiến lược, một hệ thống luật pháp và tập quán quốc tế mạnh và các diễn đàn hợp tác đa phương hiệu quả. Tuy nhiên khi các xung đột bùng nổ thì những cơ chế trên mới trở nên hấp dẫn, đặc biệt là các nước nhỏ.
Giữa tình hình đáng lo ngại như thế này, tôi vẫn nhìn thấy một cơ hội rất hứa hẹn ở Hội nghị thường niên ASEAN diễn ra ở Việt Nam. Tôi đến Hà Nội vào ngày 22/7/2010, và đến dự bữa trưa kỉ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ. Ký ức về một ngày tháng 7/1995 vẫn còn rất sống động trong tôi, khi Bill có bài phát biểu lịch sử ở phòng phía Đông Nhà Trắng giữa rất nhiều cựu chiến binh Mỹ (có cả Thượng nghị sĩ John Kerry và John McCain). Đó là sự khởi đầu của một thời đại mới - thời đại của việc hàn gắn các vết thương cũ, giải quyết vấn đề tù binh chiến tranh và hướng tới tăng cường hợp tác kinh tế cũng như chiến lược. Vào năm 2000, Bill trở thành Tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Hà Nội. Chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho những hành động phản đối hoặc thậm chí thù địch, nhưng thực tế thì rất nhiều người đã đứng chật kín hai bên đường để đón chào chúng tôi. Rất đông sinh viên, những người được sinh ra sau chiến tranh đã đến nghe Bill phát biểu ở Đại học quốc gia Hà Nội. Ở mọi nơi chúng tôi đều cảm nhận được sự nhiệt thành và hiếu khách của người Việt Nam - một dấu hiệu của sự thiện chí trong quan hệ giữa hai nước và là minh chứng mạnh mẽ cho việc bỏ lại quá khứ và hướng tới tương lai. Giờ đây khi trở lại Hà Nội với tư cách là Ngoại trưởng, tôi thấy rất ngưỡng mộ các thành tựu của Việt Nam cũng như mối quan hệ không ngừng phát triển giữa hai nước. Kim ngạch thương mại giữa hai nước đã tăng từ 250 triệu vào năm 1995 lên gần 20 tỉ đôla Mỹ vào năm trước, và các mặt hàng mới liên tục được khai thác. Việt Nam là một cơ hội chiến lược độc đáo và đầy thử thách. Việt Nam đang dần mở cửa nền kinh tế và tạo ra vị thế vững chắc hơn trong khu vực. Trong những năm qua nhiều quan chức Việt Nam đã nói với tôi rằng họ rất ngưỡng mộ và thích nước Mỹ, dù các hậu quả cuộc chiến giữa hai nước vẫn còn tồn tại. Một trong những công cụ quan trọng trong quan hệ với Việt Nam là Thỏa thuận đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) - một thỏa thuận kinh tế mới với mục đích liên kết thị trường châu Á và châu Mỹ, giảm các rào cản thương mại, nâng cao trình độ lao động, bảo vệ môi trường và quyền sở hữu trí tuệ. Theo Tổng thống Obama, mục tiêu chính của TPP là: “Thiết lập một thỏa thuận kinh tế tiêu chuẩn, có uy tín và hiệu quả; nó sẽ mở ra nhiều thị trường mới cho các doanh nghiệp Mỹ. Bên cạnh đó, lực lượng lao động Mỹ cũng nhận được lợi ích từ sự mở rộng và cạnh tranh.” Đây là một giải pháp chiến lược nhằm tăng cường vị thế của Mỹ ở châu Á. Nước Mỹ đã nhận được nhiều bài học trong các thập kỷ qua về các lợi ích cũng như thiệt hại của quá trình toàn cầu hóa và phát triển thương mại quốc tế. Trong chiến dịch 2008, cả tôi và Obama đều hứa hẹn sẽ theo đuổi các thỏa thuận thương mại công bằng và hiệu quả hơn. Vì các cuộc đàm phán về TPP vẫn đang diễn ra, chưa thể đánh giá hết được các mặt của thỏa thuận này. Sẽ không thể có được một TPP hoàn hảo (giống như các thỏa thuận đa phương khác) nhưng các tiêu chuẩn mà nó đặt ra chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho nền kinh tế Mỹ. Do TPP bao gồm 1/3 lưu lượng thương mại toàn cầu, Việt Nam cũng được lợi khá nhiều nếu tham gia vào thỏa thuận này, và các lãnh đạo sẵn sàng cải cách để đạt được sự nhất trí. Điều này tạo ra động lực cho các nước trong khu vực; từ đó TPP sẽ trở thành cột trụ kinh tế trong chiến lược của Mỹ ở châu Á, đem lại hợp tác kinh tế sâu rộng dựa trên nền tảng các quy tắc chặt chẽ.
Buổi chiều ngày 22/7, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN được khai mạc ở Trung tâm Hội nghị Quốc gia tại Hà Nội. Các cuộc đối thoại chủ yếu tập trung vào các vấn đề như thương mại, biến đổi khí hậu, buôn bán người, cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, Bắc Triều Tiên và Myanmar. Tuy vậy vấn đề biển Đông vẫn được mọi người nghĩ đến. Các tranh chấp lãnh thổ, bị chi phối bởi những yếu tố lịch sử, tư tưởng và kinh tế, đã nêu lên một câu hỏi quan trọng: Liệu Trung Quốc có sử dụng sức mạnh của mình để tạo dựng và thống trị một khu vực ảnh hưởng, hay các nước trong khu vực sẽ sử dụng hệ thống luật pháp và tập quán quốc tế để kiềm chế các nước lớn hơn? Các tàu hải quân luôn trong tình trạng đối đầu, báo chí cổ vũ chủ nghĩa dân tộc trên khắp khu vực và các nhà ngoại giao phải hoạt động liên tục để phòng ngừa xung đột leo thang. Tuy vậy Trung Quốc vẫn kiên quyết cho rằng chủ đề này không phù hợp với một hội nghị khu vực. Đêm đó tôi hội ý với Kurt Campbell và đội chuyên gia về châu Á về kế hoạch cho ngày mai. Cần có một cách tiếp cận khéo léo để tận dụng các cơ sở đã thiết lập trong gần một năm rưỡi qua. Chúng tôi dành hàng giờ để chỉnh lại bài phát biểu của tôi và những động thái phối hợp với các nước khác.
Ngay khi bắt đầu phiên làm việc thì kịch tính đã dâng cao. Việt Nam đề nghị bàn luận về vấn đề biển Đông, mặc kệ sự phản đối của Trung Quốc. Lần lượt các Bộ trưởng trình bày các lo ngại của mình và kêu gọi một cách tiếp cận đa phương để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Sau 2 năm hung hăng càn quấy của Trung Quốc, các nước khác đang đưa ra những hành động đáp trả. Và nhận thấy thời cơ đã đến, tôi ra dấu xin phát biểu. Tôi nói rằng nước Mỹ sẽ không theo một phe nào trong các tranh chấp, nhưng ủng hộ cách tiếp cận đa phương nêu trên dựa theo luật pháp quốc tế, với điều kiện các nước không được dụ dỗ hay đe dọa sử dụng vũ lực. Tôi hối thúc các quốc gia phải bảo vệ sự tự do lưu thông trên biển Đông và hướng tới một bộ quy tắc ứng xử chung; nước Mỹ sẵn sàng thúc đẩy quy trình đó vì chúng tôi cho rằng tự do hàng hải trên biển Đông là “lợi ích quốc gia”. Đó là một cụm từ được lựa chọn kĩ lưỡng để đáp lại luận điệu của Trung Quốc về các yêu sách chủ quyền và “lợi ích cốt lõi” của họ. Sau khi phát biểu xong, tôi thấy sắc mặt của Ngoại trưởng Dương Khiết Trì hơi tái; ông ấy yêu cầu nghỉ giải lao một tiếng trước khi phát biểu đáp trả. Ông ấy nhìn thẳng vào tôi, từ chối bàn luận về vấn đề biển Đông và cảnh báo các nước bên ngoài không nên can thiệp. Với các nước láng giềng thì ông ấy nhấn mạnh: “Trung Quốc là một nước lớn, lớn hơn bất kỳ nước nào ở đây”. Luận điểm này có vẻ không thuyết phục lắm. Cuộc đối mặt ở Hà Nội đã không thể giải quyết được các tranh chấp trên biển; giờ đây tình hình ở đó vẫn căng thẳng và nguy hiểm. Nhưng trong các năm sau đó, các nhà ngoại giao trong khu vực vẫn nhắc đến cuộc gặp đó như một bước ngoặt đánh dấu sự trở lại của Mỹ và nỗ lực kiềm chế Trung Quốc của các nước. Khi trở về Washington, tôi cảm thấy rất tự tin về chiến lược và vị thế của chúng ta ở châu Á. Vào năm 2009, đã có những nghi ngờ về các cam kết của Mỹ trong khu vực, một số người ở Trung Quốc đã tìm cách lợi dụng các nghi ngờ đó. Chiến lược “xoay trục” được đề ra nhằm làm tiêu tan mọi lo ngại đó. Trong một cuộc thảo luận với Ủy viên Đới, ông ấy hỏi: “Tại sao chúng tôi không “xoay trục” ra khỏi đây?” Tôi đã đi rất nhiều và phải nghe nhiều bài trình bày thật khó chịu, nhưng cuối cùng kết quả cũng tới. Chúng ta đã “trèo ra khỏi hố” và củng cố sự hiện diện của Mỹ trong khu vực. Các năm tiếp theo đem lại nhiều thử thách mới, từ sự thay đổi lãnh đạo đột ngột ở Bắc Triều Tiên đến cuộc giải thoát cho một nhà hoạt động xã hội mù ở Trung Quốc. Bên cạnh đó nhiều cơ hội cũng xuất hiện: Các tiến triển ở Myanmar hứa hẹn sẽ đem đến một sự chuyển đổi toàn diện, hướng tới nền dân chủ ở đất nước lạc hậu này. Và nhờ có các nỗ lực xây dựng lòng tin và hợp tác, mối quan hệ với Trung Quốc đã trở nên bền vững hơn bất kì hi vọng nào trước đây.
Sau khi hội nghị kết thúc, tôi phải hướng ngay sự quan tâm đến các vấn đề quan trọng khác. Chỉ còn một tuần là đến một trong những sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời tôi; báo chí đang đòi hỏi rất nhiều thông tin, và tôi còn rất nhiều việc phải làm. Lần này không phải là một hội nghị thượng đỉnh hay một thảm họa ngoại giao: đó là lễ cưới của con gái tôi, một ngày tôi đã chờ đợi gần 30 năm qua. Đám cươi của Chelsea được chú ý rất nhiều, và không chỉ ở Mỹ; một phóng viên ở Ba Lan đã hỏi tôi về sự xoay xở giữa việc chuẩn bị cho đám cưới cùng lúc với các công việc ở Bộ Ngoại giao. Khi Bill và tôi kết hôn vào năm 1975, buổi lễ diễn ra dưới sự chứng kiến của gia đình và vài người bạn thân trong ngôi nhà nhỏ ở Fayetteville, Arkansas. Tôi mặc một chiếc váy kiểu Victoria vừa mua tối hôm trước với mẹ, nhưng bây giờ mọi chuyện phức tạp hơn rất nhiều. Chelsea và con rể tương lai của tôi Marc Mezvinsky đã lên kế hoạch cho một đám cưới cuối tuần rất ấn tượng ở Rhinebeck, New York. Tôi rất vui được giúp đỡ con gái trong mọi chuyện, từ kiểm tra hoa cưới, chọn váy đến bữa tối tập dượt. Công việc ở Bộ đã giúp tôi chuẩn bị cho núi công việc ở đám cưới; tôi còn tự gọi mình là “MOTB” (mother of the bride - mẹ của cô dâu) trong các email gửi cho nhân viên ở Bộ. Mọi việc ở Hà Nội đã xong, và tôi rất háo hức được trở lại với các chi tiết và quyết định thuộc về đám cưới. Vào thứ hai tôi ở Nhà Trắng cả ngày, tham gia cuộc họp của Hội đồng an ninh quốc gia và tiếp đón Bộ trưởng Quốc phòng Israel Ehud Barak. Quá trình đàm phán hòa bình đang đi vào một thời khắc quan trọng, nhưng tôi không thể nghĩ về việc gì khác ngoài chuyến bay đến New York. Cuối cùng thì ngày ấy cũng đến, 31 tháng 7. Rhinebeck là một thị trấn thơ mộng nằm trong thung lũng Hudson với các nhà hàng phù hợp cho bữa tiệc. Mọi người tập trung tại biệt thự Astor, một công trình thanh lịch từng được Tổng thống F.D.Roosevelt chọn làm nơi nghỉ dưỡng. Ngôi nhà này từng được nhà thờ dùng làm nhà dưỡng lão, và đến năm 2008 thì được khôi phục lại vẻ đẹp nguyên trạng. Chelsea trông thật đẹp khi bước cùng Bill lên lễ đài, và hai vợ chồng tôi tôi rất xúc động vì cô bé được tôi ẵm trong tay ngày 27/2/1980 giờ đây đã trở thành một phụ nữ xinh đẹp và tự tin. Marc cười rất tươi khi Chelsea bước tới, chúng cùng khoác tay nhau bước đến cổng hoa. Cha xứ William Shillady và giáo sĩ James Ponet chịu trách nhiệm làm lễ; Marc làm vỡ một cái cốc theo phong tục Do Thái và mọi người vỗ tay nhiệt liệt. Sau đó Bill khiêu vũ với con gái trên giai điệu bài “The Way You Look Tonight”, đó là giây phút hạnh phúc và tự hào nhất của cuộc đời tôi.
Rất nhiều suy nghĩ vụt qua đầu tôi. Gia đình tôi đã trải qua nhiều chuyện cùng nhau, và tôi rất vui khi mẹ tôi vẫn còn để chia vui với mọi người. Bà ấy đã phải trải qua một tuổi thơ khó khăn, nhưng vẫn trở thành một người mẹ đích thực với tôi, Hugh và Tony cũng như bà ngoại rất gần gũi của Chelsea. Tôi nghĩ về tương lai và cuộc sống của gia đình trẻ, hai đứa có rất nhiều hoài bão và ước mơ. Đó là lí do tại sao Bill và tôi đã làm việc suốt những năm qua để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, để Chelsea và mọi đứa trẻ khác có thể trưởng thành và tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình. Tôi nhớ lại lúc Ủy viên Đới Bỉnh Quốc cho tôi xem ảnh cháu gái ông ấy; trách nhiệm của chúng ta là tìm cách hợp tác để các thế hệ tương lai được hưởng những gì mà chúng xứng đáng.
Phần 4
Châu Âu – gia cố quan hệ với những người bạn lâu năm
Tôi còn nhớ lời một bài hát của Hội hướng đạo sinh nữ từ thời tiểu học: “Tìm bạn mới nhưng đừng quên bạn cũ - Bạn mới là bạc, bạn cũ là vàng”. Với nước Mỹ thì quan hệ đồng minh với các nước châu Âu còn quý hơn vàng. Khi Hoa Kỳ bị tấn công vào ngày 11/9/2001, các nước châu Âu đã không do dự sát cánh với chúng tôi. Báo Le Monde của Pháp giật tít: “Chúng ta đều là người Mỹ”. Ngay sau vụ tấn công, lần đầu tiên trong lịch sử NATO đã huy động Điều 5 của Hiệp ước Washington, theo đó một cuộc tấn công vào một thành viên được coi là tấn công vào tất cả các thành viên của NATO. Sau hàng thập kỉ người Mỹ đứng cùng chiến tuyến với châu Âu ở bãi biển Utah, trạm gác Charlie và Kosovo, giờ đây châu Âu đang cho chúng ta biết họ luôn sẵn sàng giúp đỡ trong những thời khắc sinh tử. Nhưng rất không may, sau thời điểm đỉnh cao đó thì mối quan hệ Mỹ - châu Âu ngày càng đi xuống. Hầu hết các đồng minh châu Âu không đồng ý với quyết định đưa quân vào Iraq, nhiều nước cảm thấy khó chịu vì thái độ “nếu không theo chúng tôi thì là kẻ thù” của Tổng thống Bush và các phát ngôn của Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld về “châu Âu già cỗi”. Đến năm 2009 thì tư tưởng thân Mỹ đã giảm mạnh trên khắp châu Âu: ở Anh từ 83% giảm xuống 53%, ở Đức giảm từ 78% xuống 31%. Rõ ràng là chính quyền mới của Tổng thống Obama phải cải thiện việc này. “Hiệu ứng Obama” có lẽ là tài sản lớn nhất mà chúng tôi đã dựa vào để xoay chuyển tình hình ở châu Âu. Nhiều người rất hứng thú với vị Tổng thống mới; khi còn là ứng cử viên Tổng thống, ông ấy đã thu hút được hơn 200 nghìn người ở Berlin đến nghe mình nói chuyện. Sau khi kết quả bầu cử được công bố, một tờ báo Pháp đã giật tít “Một giấc mơ Mỹ”. Sự kì vọng là rất cao, do đó việc kiểm soát và biến các năng lượng tích cực đó thành các tiến triển lâu dài là một thử thách không hề nhỏ. Dù cho đã có những rạn nứt dưới thời Bush, các liên kết giữa hai bên sâu sắc hơn bất kì một bất đồng ý kiến nào. Các đồng minh châu Âu luôn được nghĩ đến đầu tiên khi nước Mỹ đối mặt với một thử thách; mối quan hệ này được xây dựng trên các giá trị tự do và dân chủ. Bóng ma của hai cuộc thế chiến và Chiến tranh lạnh đã lùi xa, tuy nhiên châu Âu vẫn ghi nhớ các hi sinh lớn lao vì tự do của người Mỹ, ví dụ như 60 nghìn lính Mỹ đã hi sinh trên đất Pháp. Tầm nhìn về một châu Âu toàn vẹn, tự do và hòa bình là mục tiêu của mọi chính quyền Mỹ từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Nước Mỹ luôn mong muốn người dân và các nước có thể bỏ qua các xung đột trong quá khứ và tiến tới một tương lai hòa bình và thịnh vượng. Tôi biết các vấn đề lịch sử vẫn bám chặt lấy nhiều xã hội; thậm chí một quan chức Nam Âu đã đề cập đến cuộc Thập tự chinh khi tôi hỏi tình hình hiện nay ở nước bà ấy. Các kí ức lịch sử có thể giúp các đồng minh cùng vượt qua khó khăn, nhưng chúng cũng góp phần duy trì các mối hận thù truyền thống và hạn chế tầm nhìn vào tương lai. Các nước Tây Âu đã có thể hòa giải sau Thế chiến II; các nước Trung và Đông Âu đã bắt đầu quá trình mở cửa và hội nhập sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Tới năm 2009 châu Âu đã đạt được nhiều tiến triển quan trọng, và chúng ta đang ở gần mục tiêu lí tưởng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên điều đó rất mong manh: các nước Nam Âu phải đối phó với khủng hoảng kinh tế, vùng Balkan vẫn phải khắc phục các hậu quả do chiến tranh để lại, nền dân chủ và nhân quyền gặp phải cản trở ở nhiều nước thuộc Liên Xô cũ, và đặc biệt là sự can thiệp của nước Nga vào Georgia. Những người tiền nhiệm của tôi đã xây dựng mối quan hệ đồng minh với châu Âu và truyền bá tư tưởng về đoàn kết, tự do và hòa bình trên khắp châu lục; giờ đây tôi được lãnh trách nhiệm làm mới quan hệ và xử lý các mâu thuẫn còn tồn tại.
Quan hệ giữa các nước có cơ sở là các giá trị và lợi ích chung, bên cạnh đó là các yếu tố cá nhân. Các yếu tố đó có thể đem lại lợi thế rất lớn trong quan hệ quốc tế. Hãy nghĩ về tình bạn nổi tiếng giữa Ronald Reagan và Margaret Thatcher và đóng góp của nó vào thắng lợi của cuộc Chiến tranh lạnh; hay sự hục hặc giữa Khrushchev và Mao Trạch Đông, dẫn đến thất bại trong cùng một cuộc chiến đó. Dựa vào nhận định này, tôi đã liên hệ với các nhà lãnh đạo chủ chốt ở châu Âu ngay từ ngày làm việc đầu tiên. Một số người tôi đã biết và quý mến từ khi còn là Đệ nhất phu nhân và Thượng nghị sĩ; những người khác trở thành bạn mới, tuy nhiên tất cả mọi người đều là những đối tác quan trọng với tôi. Tôi bắt đầu với cuộc gọi cho David Miliband, Ngoại trưởng Anh nhằm thể hiện sự đảm bảo và cam kết của Mỹ. Ông ấy làm tôi phì cười với câu nói: “Chúa ơi, người tiền nhiệm đã để lại cho bà cả núi vấn đề. Công việc này chắc chỉ có Hercules mới gánh nổi, nhưng tôi tin bà có đủ sức mạnh để làm việc đó.” Tôi thấy rất vui vì lời khen, nhưng cũng phải làm rõ rằng chúng tôi cần cải thiện quan hệ và cùng hành động, chứ không thể hoạt động một mình như anh hùng trong thần thoại. David đã trở thành một đối tác vô giá: ông ấy còn trẻ, năng động, thông minh, sáng tạo và thú vị với nụ cười luôn nở trên môi. Chúng tôi có cùng quan điểm về sự thay đổi của thế giới, tầm quan trọng của các yếu tố dân sự trong đối ngoại và lo ngại về tình trạng thất nghiệp của giới trẻ hiện nay. Chúng tôi không chỉ là đồng nghiệp tốt mà còn sở hữu một tình bạn chân thành. Sếp của David là Thủ tướng Gordon Brown của Công đảng, một người Scotland thông minh và cứng rắn. Thủ tướng Brown đã phải chịu nhiều áp lực từ cuộc khủng hoảng kinh tế và quyết định ủng hộ việc đưa quân vào Iraq của người tiền nhiệm Tony Blair. Trong cuộc bầu cử sau đó Brown đã thất bại và bị thay thế bởi David Cameron thuộc Đảng Bảo thủ. Tổng thống Obama và Thủ tướng Cameron nhanh chóng trở nên thân thiết sau khi gặp nhau ở một bữa tiệc khép kín trước khi ông Cameron tuyên bố thắng cử. Tôi được tiếp xúc với Thủ tướng Cameron một vài lần; ông ấy luôn tò mò và muốn trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế, từ phong trào Mùa xuân Arab đến kiểm soát thương mại quốc tế. Ngoại trưởng mới của Anh là ông William Hague, từng là Chủ tịch Đẩng Bảo thủ và đối thủ của Tony Blair trong thập kỉ 90 của thế kỉ trước. Trước khi chính thức trở thành Ngoại trưởng, ông Hague đã đến Washington gặp tôi. Chúng tôi bắt đầu cuộc nói chuyện một cách khá rụt rè, nhưng dần dần tôi phát hiện ra ông ấy là một chính trị gia có tư duy tốt và khiếu hài hước. Tôi rất thích tác phẩm của ông ấy về William Wilberforce, người đã chấm dứt chế độ nô lệ ở Anh vào thế kỉ XIX. Hague hiểu rằng công tác ngoại giao thường tốn thời gian và buồn tẻ nhưng lại rất quan trọng. Trong buổi tiệc chia tay ở Đại sứ quán Anh năm 2013, ông ấy phát biểu: “Huân tước Salisbury - cựu Ngọai trưởng và Thủ tướng vĩ đại của nước Anh - từng nói rằng các thắng lợi ngoại giao được tạo nên bởi một chuỗi các lợi thế nhỏ: một gợi ý về luật pháp, một cơ hội được tận dụng, một sự nhượng bộ khôn ngoan, sự chịu đựng, nỗ lực không ngừng nghỉ, sự bình tĩnh và trên hết là sự kiên nhẫn mà không sự điên rồ, khiêu khích hay lỗi lầm nào có thể lay chuyển được”. Đó là một kết luận hoàn hảo cho sự nghiệp Ngọai trưởng của tôi; William Hague đúng là David Beckham của những lời chúc tụng.
Phía bên kia eo biển Anh quốc, tôi cũng tìm được những đối tác quan trọng khác. Ông Bernard Kouchner là Ngoại trưởng Pháp dưới thời Tổng thống Sarkozy. Bernard là người thành lập tổ chức Bác sĩ không biên giới (Doctors Without Borders) - gồm các bác sĩ tình nguyện đi đến những nơi gặp thảm họa, chiến tranh và những nước nghèo nhất thế giới. Tổ chức này đã góp phần làm giảm thương vong của trận động đất Haiti năm 2010. Tôi cũng thiết lập được mối quan hệ tốt với những người kế nhiệm như Alain Juppe và Laurent Fabius (do Tổng thống Francois Hollande bổ nhiệm năm 2012). Các nhà lãnh đạo thường ít nói hơn so với hình tượng trước công chúng, nhưng Sarkozy thì khác, ông ấy luôn tỏ ra vui vẻ và thường xuyên đem đến kịch tính. Trong các cuộc họp, ông ấy hay sử dụng các cử chỉ rất mạnh và không chịu ngồi yên, trong khi cô phiên dịch của ông ấy cố gắng bắt kịp theo từng lời nói. Sarkozy thường nói rất nhanh và dùng nhiều phép tu từ khi nói về chính sách đối ngoại, do vậy rất khó để chiến thắng ông ấy khi tranh luận. Ông ấy thích tán chuyện, và thường mô tả các nhà lãnh đạo khác là điên rồ hoặc yếu đuối; một người là “tên điên phê thuốc”, một người có quân đội “không biết đánh đấm gì”, một người thì giống những người tiền nhiệm, đều là “những kẻ cục súc”. Sarkozy luôn băn khoăn tại sao các nhà ngoại giao đến gặp ông đều là đàn ông và có tóc bạc. Chúng tôi thường cười, bàn luận và tranh cãi nhưng luôn nhất trí về các giải pháp. Sarkozy muốn khôi phục vị thế cường quốc của Pháp bằng cách gánh thêm các trách nhiệm quốc tế, với ví dụ điển hình là Libya. Và ông ấy luôn là một quý ông dù tính cách có hơi xốc nổi. Vào năm 2010, trong một lần bước lên điện Elysee, tôi bị rơi giày và các nhà báo đã chộp được cảnh tôi đi chân đất. Tổng thống Sarkozy nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi và giúp tôi đi lại giày. Sau đó tôi tặng ông ấy một bản sao của bức ảnh đó và ghi: “Tôi không phải Lọ Lem nhưng ông luôn là Hoàng tử của tôi”.
Tuy nhiên, nhà lãnh đạo quyền lực nhất châu Âu lại là một phụ nữ với tính cách gần như đối lập hoàn toàn với ông Sarkozy: Thủ tướng Angela Merkel của Đức. Tôi gặp bà ấy lần đầu tiên vào năm 1994 khi đến thăm Berlin cùng Bill. Bà ấy xuất thân từ Đông Đức cũ, và đã đảm nhiệm chức Bộ trưởng Phụ nữ và Thanh niên dưới thời Thủ tướng Helmut Kohl. Khi gặp tôi, mọi người giới thiệu bà ấy là “một phụ nữ trẻ và sẽ còn tiến xa” - những nhận xét hoàn toàn chuẩn xác. Tôi và bà ấy giữ liên lạc thường xuyên, thậm chí còn cùng xuất hiện trên truyền hình Đức vào năm 2003. Đến năm 2005, bà Merkel được bầu làm Thủ tướng Đức, và là lãnh đạo nữ đầu tiên của đất nước. Nền chính trị châu Âu được coi như lãnh địa của đàn ông dù cho tư tưởng ở các mặt khác rất tiến bộ (chăm sóc sức khỏe, biến đổi khí hậu…); tôi rất vui khi Angela lên nắm quyền và thay đổi mọi định kiến. Trong nhiệm kì Ngoại trưởng, tôi càng ngưỡng mộ Angela nhiều hơn. Bà ấy rất quyết đoán, thẳng thắn và khôn khéo. Là một nhà vật lí học và có bằng tiến sĩ về hóa học lượng tử, bà ấy nắm rất chắc các vấn đề kĩ thuật như biến đổi khí hậu và năng lượng hạt nhân. Thủ tướng Merkel mang sự tò mò với thế giới đến tất cả các cuộc thảo luận, luôn đặt ra những câu hỏi về các sự kiện, con người và tư tưởng - rất khác so với nhiều nhà lãnh đạo khác luôn tự cho rằng mình đã biết tất cả mọi thứ. Khi bà Thủ tướng đến thăm Washington vào tháng 6/2011, tôi đã đón tiếp bà ấy rất chu đáo ở trụ sở Bộ. Bà ấy tặng tôi một tờ báo Đức tường thuật lại chuyến thăm Berlin gần đây của tôi. Vừa nhìn thấy nó tôi đã cười phá lên: trang nhất của tờ báo là một bức hình chụp hai chúng tôi đứng cạnh nhau, nhưng đầu đã bị bỏ đi, chỉ còn lại hai phụ nữ mặc quần âu giống hệt nhau. Tờ báo đố các độc giả có thể tìm ra đâu là Angela Merkel, đâu là tôi, và thú thật là rất khó để chọn đúng. Tôi đã treo tờ báo đó trong văn phòng cho đến hết nhiệm kì. Trong những năm tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Angela đã phải xử lý nhiều vấn đề khó khăn. Châu Âu bị thiệt hại khá lớn, một phần do đồng tiền chung Euro được nhiều nước trong khối sử dụng. Các nền kinh tế yếu (Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý và Ireland) phải đối mặt với mức nợ công báo động, tăng trưởng rất thấp và tỉ lệ thất nghiệp cao, nhưng họ không có các công cụ điều chỉnh chính sách tiền tệ từ việc kiểm soát đồng tiền của riêng nước mình. Để hỗ trợ khẩn cấp, Đức - nền kinh tế lớn nhất Eurozone - đã yêu cầu các quốc gia trên áp dụng các biện pháp tức thời để cắt giảm chi tiêu và cải cách ngân sách. Đây là một thế lưỡng nan chính sách: nếu các nền kinh tế trên không giải quyết được vấn đề nợ thì cả khu vực Eurozone có thể sụp đổ, và làm nền kinh tế thế giới trở nên hỗn loạn; tuy nhiên nếu các biện pháp quá cứng rắn thì sẽ ảnh hưởng đến việc khôi phục tăng trưởng, khiến cho quá trình hồi phục sau khủng hoảng kinh tế khó khăn hơn. Ở Mỹ, Tổng thống Obama đã phản ứng lại việc này bằng cách đưa ra một chương trình đầu tư mạnh tay thông qua Quốc hội để khôi phục tốc độ phát triển, và cố gắng giảm nợ công trong dài hạn. Châu Âu nên làm theo các biện pháp trên để tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế, và tôi đã dành khá nhiều thời gian để bàn luận với các nhà lãnh đạo châu Âu về việc này. Bạn có thể không đồng ý với các chính sách tiền tệ của Thủ tướng Merkel, nhưng chắc chắn phải ấn tượng trước quyết tâm của bà ấy. Theo tôi thì bà Merkel đã “gánh cả châu Âu trên vai” trong khoảng thời gian tồi tệ đó.
Sợi dây kết nối vững vàng nhất trong mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương là NATO, liên minh quân sự với các nước châu Âu và cả Canada. (Nhiều người cho rằng quan hệ tốt với Canada là tự nhiên mà có, nhưng thực ra nước láng giềng phía Bắc là một đối tác vô giá trong các hoạt động của Mỹ trên toàn cầu). NATO đã thành công trong việc bao vây Liên Xô cũ và khối Hiệp ước Warsaw trong hơn 4 thập kỷ. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, liên minh này lại phải đối phó với các nguy cơ an ninh mới. Nhiều nước thuộc Liên Xô cũ cảm thấy cần có những bảo đảm an ninh từ phương Tây do lo ngại về sự phục hưng của nước Nga, và NATO quyết định mở của chào đón tất cả các nước. Bên cạnh đó, NATO còn thành lập một mạng quan hệ đối tác với các nước chưa là thành viên, và một hội đồng tư vấn với Nga. Dưới thời Tổng thống Clinton, NATO vẫn chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với kịch bản nước Nga trỗi dậy một lần nữa. Khi các lực lượng của NATO đang chiến đấu vì hòa bình ở Kosovo, Bill và tôi tham gia lễ kỉ niệm 50 năm thành lập NATO cùng các nguyên thủ quốc gia khác ở Washington. Tổng thống Cộng hòa Séc Vaclav Havel, một nhà dân chủ mạnh mẽ đã nhận xét: “Đây là hội nghị thượng đỉnh đầu tiên của NATO có sự tham gia của các nước mà 10 năm trước đây vẫn còn thuộc Khối Warsaw; hãy cùng hi vọng rằng chúng ta đang tiến vào một thế giới mà các quốc gia có thể định đoạt số phận của chính mình chứ không phải phụ thuộc vào các nước lớn khác. Nếu không, chúng ta phải sẵn sàng bảo vệ nền tự do ấy”. Vào năm 2004, có thêm 7 nước từng trong khối XHCN gia nhập NATO; ngày 1/4/2009 có thêm Albania và Croatia, đem tổng số thành viên của NATO lên con số 28. Các nước khác như Ukraine, Bosnia & Herzegovina, Moldova và Georgia đang xem xét các khả năng gia nhập EU và NATO. Sau khi Nga lấy lại bán đảo Crimea vào đầu năm 2014, đã có ý kiến cho rằng sự mở rộng NATO là nguyên nhân chính dẫn đến sự hung hăng của Nga. Tôi không đồng ý với luận điểm đó, nhưng các lí luận phủ nhận điều đó rõ ràng nhất đến từ những nước thành viên mới của NATO; nhờ NATO họ có thêm sự tự tin để đối phó với tham vọng của Tổng thống Nga Vladimir Putin. Putin cho rằng chính sách mở cửa của NATO là một nguy cơ đối với nước Nga, ông ấy không tin rằng mối quan hệ Nga - phương Tây có thể dựa vào việc hợp tác vì lợi ích chung như Boris Yeltsin và Mikhail Gorbachev trước đây. Những người ủng hộ Putin nên nghĩ xem cuộc khủng hoảng này sẽ trở nên nghiêm trọng đến mức nào, và khó khăn trong việc kiềm chế sự hung hăng của Nga nếu các nước Trung và Đông Âu không gia nhập NATO. Cánh của của NATO phải được giữ rộng mở, và chúng ta cần tỉnh táo và cứng rắn khi đối phó với nước Nga.
Khi Tổng thống Obama nhậm chức, NATO bao gồm một cộng đồng dân chủ gần một tỉ người, kéo dài từ vùng Baltic đến tận Alaska. Trong chuyến thăm đầu tiên đến trụ sở NATO ở Brussels vào tháng 3/2009, các hành lang đã xôn xao và phấn khích vì sự “trở lại” của nước Mỹ. Tôi đã dành nhiều giờ thảo luận với Ngoại trưởng các nước và Tổng thư ký NATO Anders Fogh Rasmussen - cựu Thủ tướng Đan Mạch, một lãnh đạo tài năng và có kinh nghiệm, rất cần thiết với NATO. Đôi khi vẫn có một chút lo ngại trong các nước thành viên mới. Ví dụ như Bulgaria: thành viên mới gia nhập NATO năm 2004, đã đóng góp tích cực cho các nhiệm vụ ở Afghanistan và nhiều nơi khác. Tuy nhiên khi tôi đến thăm Sofia vào tháng 2/2012, Thủ tướng Boyko Borisov có vẻ rất lo lắng. Có nhiều vấn đề quan trọng cần thảo luận, và tôi muốn chắc rằng không có gì đáng lo vì bây giờ hai nước là đồng minh. Thủ tướng Borisov mở lời: “Thưa bà Ngoại trưởng, tôi rất lo lắng khi xem hình ảnh bà xuống máy bay; tôi được các cố vẫn báo rằng khi bà cột tóc lại thì tức là bà đang tức giận”. Và đúng là tôi đang cột tóc lại (chắc là gợi nhớ đến các đặc vụ KGB). Tôi nhận thấy tóc ông Thủ tướng gần như hói, và cười nói: “Thời gian chuẩn bị tóc của tôi chỉ nhiều hơn ông một chút thôi”. Ông ấy cười to, và chúng tôi đã có một cuộc gặp rất hiệu quả. Cuộc chiến lâu dài ở Afghanistan đã làm NATO tổn thất khá lớn và để lộ một số sơ hở trong hoạt động. Một số nước đã cắt giảm ngân sách quốc phòng, và các nước khác (chủ yếu là Mỹ) phải bù vào số đó, dù tất cả các nước phải chịu thiệt hại của cuộc khủng hoảng kinh tế. Đã có những ý kiến ở cả hai bờ Đại Tây Dương về việc liệu NATO có còn cần thiết khi Chiến tranh lạnh đã kết thúc gần 20 năm. Tôi nghĩ rằng NATO là một giải pháp mấu chốt để xử lí các nguy cơ mới nổi của thế kỉ XXI. Nước Mỹ không thể và không nên ôm đồm tất cả mọi thứ; cần phải tận dụng các mối quan hệ dựa trên lợi ích và mục tiêu chung. Cho đến nay NATO vẫn là đối tác quan trọng nhất của Mỹ, đặc biệt từ khi các thành viên thông qua hoạt động “ngoại lệ” lần đầu tiên ở Bosnia năm 1995, biểu hiện cho việc nền phòng thủ tập thể có thể bị đe dọa không chỉ từ các cuộc tấn công trực tiếp vào một nước NATO. Bên cạnh đó cũng không thể quên việc các đồng minh NATO đã đóng góp sức người sức của vào Afghanistan. Trong năm 2011, chúng ta đã định hình được NATO trong thế kỉ XXI bằng việc dẫn đầu cuộc can thiệp quân sự vào Libya để bảo vệ dân thường, lần đầu phối hợp với Liên đoàn Arab: 14 nước đồng minh và 4 nước Arab đã đóng góp lực lượng hải quân và không quân cho chiến dịch. Đó là một chiến dịch thành công của liên quân, trái với quan điểm của một số nhà phê bình. Nước Mỹ có những đóng góp của riêng mình, nhưng các nước khác đã tiến hành 75% chuyến bay và tiêu diệt 90% mục tiêu ở Libya. Điều này trái ngược hẳn với tình hình phân công của 10 năm trước, khi nước Mỹ thực hiện 90% các cuộc ném bom trong chiến dịch Kosovo. Anh và Pháp dẫn đầu chiến dịch với khả năng quân sự mạnh; Ý cung cấp 7 căn cứ không quân và tiếp nhận hàng trăm máy bay; các máy bay đến từ Bỉ, Canada, Hà Lan, Na Uy, UAE, Qatar và Jordan đã thực hiện hơn 26 nghìn chuyến bay; lực lượng hải quân của Hy Lạp, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ và Romania thực hiện lệnh cấm vận trên biển. Chiến dịch này là một sự phối hợp tuyệt vời, đúng như tôn chỉ của NATO.
Nếu NATO là một trong những liên minh quân sự thành công nhất trong lịch sử thì Liên minh châu Âu (EU) có thể là tổ chức chính trị - kinh tế hiệu quả nhất. Trong một khoảng thời gian ngắn, các nước từng đối đầu trong hai cuộc chiến tranh thế giới đã thống nhất ý kiến và bầu ra các đại diện ở một Nghị viện chung; sự phát triển của EU gần như là một phép màu, dù cho các thủ tục và cơ chế phức tạp vẫn còn tồn tại. Đóng góp của EU vào hòa bình và thịnh vượng trên thế giới đã được công nhận bằng giải Nobel Hòa bình năm 2012. Các đối tác ở châu Âu đã đạt được nhiều thành tựu: Na Uy là nước cung cấp các dự án chăm sóc sức khỏe cộng đồng hàng đầu; Ireland dẫn đầu nỗ lực thoát khỏi nạn đói; người Hà Lan là hình mẫu tiêu chuẩn cho việc giải quyết nghèo đói và phát triển bền vững; các nước Baltic đem lại kinh nghiệm trong hoạt động xã hội; Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan không ngừng nghiên cứu và đưa ra các giải pháp cho vấn đề biến đổi khí hậu; danh sách còn dài nữa. Tôi muốn đẩy quan hệ với EU lên một tầm cao mới, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng và kinh tế. Trong thời gian đầu nhiệm kì, tôi đã thúc giục EU thiết lập Hội đồng Năng lượng Mỹ - EU để phối hợp giúp đỡ các nước phát triển nguồn năng lượng nội địa và giảm sự phụ thuộc vào nguồn cung từ Nga. Mỹ và EU cũng đã bắt đầu bàn luận về một thỏa thuận kinh tế với chức năng đơn giản hóa các quy chế, tăng cường giao lưu thương mại và đem lại tăng trưởng cho cả hai bờ Đại Tây Dương.
Mối quan hệ cần chú ý nhiều nhất ở châu Âu là với Thổ Nhĩ Kỳ - đất nước với hơn 70 triệu dân, chủ yếu là tín đồ Hồi giáo và có lãnh thổ ở cả châu Âu và châu Á. Nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại, dân chủ, thế tục và thân phương Tây được Mustafa Kemal Ataturk thành lập sau khi Đế chế Ottoman sụp đổ sau Thế chiến I. Họ gia nhập NATO vào năm 1952 và trở thành đồng minh tin cậy trong suốt Chiến tranh lạnh, từng gửi lực lượng đến tham chiến ở Triều Tiên và đồng ý cho Mỹ thuê các căn cứ quân sự. Tuy vậy quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đã vài lần can thiệp và lật đổ các chính phủ họ cho là quá thân Hồi giáo, cánh tả hoặc yếu kém để hiện thực hóa ước mơ của Ataturk. Trong Chiến tranh lạnh thì điều đó là có thể hiểu được, nhưng các tiến bộ dân chủ đã bị hãm lại. Trong những năm Tổng thống Bush nắm quyền thì quan hệ hai nước không tốt, vào năm 2007 thì tỉ lệ ủng hộ Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ chỉ là 9%, thấp nhất trong 47 nước được Trung tâm nghiên cứu Pew điều tra. Trong khi đó, nền kinh tế của Thổ Nhĩ Kỳ phát triển rất mạnh với tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới. Trong khi châu Âu chật vật với cuộc khủng hoảng kinh tế và vùng Trung Đông không có tiến triển gì lớn, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một quyền lực trong khu vực. Giống như Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ đang cố dung hòa nền dân chủ, quá trình hiện đại hóa, quyền phụ nữ, chủ nghĩa thế tục và Hồi giáo dưới sự quan sát của khu vực Trung Đông. Nước Mỹ sẽ đạt được lợi ích lớn nếu quá trình này thành công và quan hệ hai nước phát triển theo chiều hướng tích cực hơn. Tôi đến thăm Thổ Nhĩ Kỳ trong chuyến công du châu Âu đầu tiên với tư cách Ngoại trưởng. Ngoài các cuộc gặp với quan chức cấp cao như Thủ tướng Recep Tayyip Erdogan và Tổng thống Abdullah Gul, tôi cũng tiếp xúc với người dân Thổ Nhĩ Kỳ. Điều này là rất quan trọng ở những nước có chính phủ thân thiện nhưng phần lớn dân chúng không tin tưởng hoặc bài Mỹ. Bằng cách sử dụng truyền thông đại chúng để gây ảnh hưởng trực tiếp với người dân, tôi đã đem lại lí do chính đáng để các chính phủ có thể hợp tác với Mỹ. Chương trình đối thoại truyền hình khá nối tiếng “Haydi Gel Bizimle Ol” (Hãy đến với chúng tôi) đã mời tôi làm khách. Gần giống như chương trình “The View”, chuyên mục này được nhiều thành phần trong xã hội Thổ Nhĩ Kỳ yêu thích, đặc biệt là phụ nữ. Các nữ MC đã đặt ra nhiều câu hỏi về các vấn đề chính sách cũng như riêng tư. Cuộc thảo luận rất vui, nồng ấm và bao quát. Một người hỏi tôi: “Lần cuối cùng bà yêu một người và cảm thấy như một người bình thường là khi nào?” Đây không phải là một câu hỏi thích hợp với một Ngoại trưởng, nhưng nó sẽ giúp tôi kết nối với người xem. Tôi kể lại thời khắc gặp chồng tôi ở trường luật, yêu nhau, xây dựng gia đình và những khó khăn trong việc duy trì gia đình đó dưới con mắt của công chúng. “Tôi thích nhất khi cả gia đình cùng tụ họp và làm các việc bình thường như đi xem phim, chơi bài, chơi cờ, đi bộ… Tôi cố gắng tận dụng mọi thời gian có thể để sinh hoạt với gia đình, lúc đó tôi có thể là chính mình và tận hưởng niềm vui ở bên những người tôi yêu quý. Đó là những thời khắc tuyệt vời nhất trong cuộc sống.” Cả khán phòng vỗ tay nhiệt liệt, và các nhân viên đại sứ quán đã nhận được những phản hồi rất tích cực. Chắc chắn nhiều người Thổ Nhĩ Kỳ có ấn tượng không tốt về Mỹ đã bất ngờ khi thấy Ngoại trưởng Hoa Kỳ cũng là một người bình thường với những quan tâm và lo lắng giống như họ. Từ đó, có thể họ sẽ dần hiểu những gì tôi nói về tương lai quan hệ Mỹ - Thổ Nhĩ Kỳ.
Người nắm trong tay chìa khóa để dẫn tới tương lai đó là Thủ tướng Erdogan. (Trong hệ thống chính trị ở đây, Tổng thống chỉ là một chức danh mang tính lễ nghi, Thủ tướng mới là người điều hành chính phủ). Lần đầu tiên tôi gặp ông Erdogan là những năm 90 khi ông ấy làm thị trưởng Istanbul, đó là một chính trị gia có tham vọng, mạnh mẽ, tận tâm và hiệu quả. Đảng Công lý và Phát triển theo tư tưởng Hồi giáo của ông ấy đã giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử năm 2002, 2007 và 2011. Thủ tướng Erdogan là người ủng hộ các thay đổi mạnh tay: chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã xét xử những người tham gia vào âm mưu đảo chính của quân đội và kiểm soát nhiều quyền lực hơn bất cứ chính phủ nào trước đó. (Ở đây, tư tưởng Hồi giáo được nhắc đến với vai trò dẫn đường cho các đảng chính trị và chính phủ; nó bao hàm nhiều yếu tố, từ các chính sách công cho đến luật pháp. Không phải mọi người có tư tưởng Hồi giáo đều giống nhau: có nhiều nhà lãnh đạo Hồi giáo tỏ ra thù địch với nền dân chủ, ủng hộ các phần tử cực đoan và khủng bố; có những đảng phái khác tôn trọng các quy tắc của nền dân chủ, và nước Mỹ luôn khuyến khích các đảng phái tôn giáo làm như vậy. Mọi ý kiến cho rằng những tín đồ Hồi giáo không thể tồn tại chung với nền dân chủ là xúc phạm, nguy hiểm và sai trái.) Một số thay đổi dưới thời Thủ tướng Erdogan là rất tốt: để gia nhập EU, Thổ Nhĩ Kỳ đã hủy bò các phiên tòa an ninh quốc gia, cải cách luật pháp, mở rộng quyền được tư vấn pháp lý và nới lỏng các quy định về việc dạy và phát sóng bằng tiếng Kurd. Ngoài ra, Thủ tướng Erdogan cũng đang theo đuổi kế hoạch “Không còn xung đột với láng giềng”, theo đó các xung đột cũ trong quá khứ sẽ được giải quyết triệt để, tham gia với vai trò tích cực hơn vào tình hình Trung Đông; đây là một kế hoạch có triển vọng và tính xây dựng cao, được đề ra bởi Ahmet Davutoglu - một trong các cố vấn và sau này là Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy vậy, nó cũng đem lại những quyết định có phần vội vàng như một thỏa thuận ngoại giao đơn sơ với Iran, không đóng góp được gì vào nỗ lực đàm phán về chương trình hạt nhân của họ. Bên cạnh các tiến triển tích cực, sự đối xử với các đối thủ chính trị và báo chí của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ là khá đáng lo ngại. Nhiều đảng phái đối lập nghi ngờ rằng ông Erdogan đang muốn biến Thổ Nhĩ Kỳ thành một nhà nước Hồi giáo và không có bất kì sự chống đối nào. Chính phủ Thổ đã bỏ tù khá nhiều phóng viên, và rất mạnh tay trong việc dẹp bỏ các cuộc biểu tình. Tham nhũng là một vấn đề nghiêm trọng, và chính phủ không đáp ứng được các kì vọng của tầng lớp trung lưu đang ngày càng tăng lên.
Các vấn đề tôn giáo và văn hóa ở đây khá nhạy cảm, do Hồi giáo và chủ nghĩa thế tục đã cùng tồn tại trong thời gian khá lâu và không thể tránh khỏi những va chạm nhỏ. Tôi đã có vinh hạnh được biết ngài Giáo trưởng của Nhà thờ Chính thống giáo Hy Lạp, Cha Bartholomew và rất ngưỡng mộ nỗ lực của Cha nhằm phát triển các cuộc đối thoại đa tôn giáo và quyền tự do tôn giáo. Cha Bartholomew cho rằng Thủ tướng Erdogan là một đối tác tốt, tuy nhiên Nhà thờ vẫn đang chờ chính phủ Thổ trả lại những tài sản thuộc Giáo hội và cho phép tu viện Halki được mở cửa trở lại. Khi ông Erdogan nói về việc cho phép sinh viên nữ đeo khăn ở trường, đã có những ý kiến trái chiều: người thì cho đó là một bước tiến của sự tự do tôn giáo và quyền phụ nữ; người khác lại nghĩ đây là một cú đánh vào chủ nghĩa thế tục và xã hội hiện đại. Tuy nhiên thì các con gái của Erdogan đều đeo khăn và học rất giỏi; ông ấy có ý định gửi một đứa sang Mỹ du học và đã hỏi ý kiến của tôi. Tôi đã dành hàng giờ nói chuyện với Thủ tướng và Ngoại trưởng Davutoglu. Ông Davutoglu là một học giả chuyển sang làm ngoại giao và chính trị; tư tưởng về vị thế quốc tế của Thổ Nhĩ Kỳ trong tương lai của ông ấy được Erdogan chia sẻ. Ngoại trưởng Davutoglu là người có đam mê với công việc và kiến thức sâu rộng, chúng tôi đã xây dựng được một mối quan hệ công tác hiệu quả và thân thiện. Trong 4 năm tôi làm Ngoại trưởng, Thổ Nhĩ Kỳ đã trở thành một đối tác quan trọng, tuy đôi khi hơi khó chịu. Có khi chúng tôi nhất trí (vấn đề Afghanistan, chống khủng bố, Syria…) nhưng nhiều lúc lại bất đồng quan điểm (chương trình hạt nhân của Iran…). Các nỗ lực của tôi và Tổng thống Obama đã góp phần làm ổn định quan hệ hai nước, nhưng các sự kiện bên ngoài đã đem lại những thử thách mới, đặc biệt là căng thẳng với Israel. Tình hình nội bộ của họ cũng có nhiều biến cố như các cuộc biểu tình lớn và cáo buộc tham nhũng với một số bộ trưởng trong chính quyền. Tương lai của Thổ Nhĩ Kỳ rất khó đoán định, tuy nhiên chắc chắn rằng họ sẽ là một nước có ảnh hưởng lớn trong các vấn đề ở Trung Đông và châu Âu, và quan hệ với Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Kế hoạch “Không xung đột” là một mục tiêu rất tham vọng, đặc biệt vì Thổ Nhĩ Kỳ vãn còn vướng vào vài tranh chấp lâu năm với các nước láng giềng. Cuộc chiến tranh giành đảo Cyprus với Hy Lạp vẫn để lại hậu quả sau vài thập kỷ; mâu thuẫn với Armenia - đất nước nhỏ thuộc Liên Xô cũ, không có biển, nằm ở phía Đông Thổ Nhĩ Kỳ. Các ví dụ này cho thấy các hục hặc cũ có thể làm tổn hại đến các tiến triển mới. Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia chưa từng thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức từ khi Armenia tuyên bố độc lập vào năm 1991. Căng thẳng càng gia tăng với cuộc chiến Nagorno-Karabakh xảy ra giữa Armenia và đồng minh của Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan; hiện nay thỉnh thoảng vẫn xảy ra các cuộc đấu súng nhỏ lẻ giữa binh lính hai nước. Người ta gọi mâu thuẫn giữa hai nước này là “xung đột đóng băng” do không có gì tiến triển trong nhiều năm và hi vọng hòa giải gần như bằng không. Khi tôi xem xét tình hình châu Âu và thế giới, tôi rất muốn bỏ qua các điểm xung đột như vậy, nhưng hậu quả về mặt chiến lược là khá nghiêm trọng. Ví dụ, xung đột ở vùng Caucasus làm cản trở kế hoạch xây đường ống dẫn khí đốt từ Trung Á đến châu Âu và giảm sự lệ thuộc vào năng lượng của Nga. Tôi nghĩ kế hoạch của người Thổ có thể mở ra một cánh cửa để giải quyết cuộc xung đột đóng băng này, do đó tôi đã chỉ đạo Phil Gordon, Trợ lý khu vực châu Âu và Trung Á nghiên cứu về các giải pháp khả thi. Trong năm 2009, Mỹ và các đối tác châu Âu như Thụy Sĩ, Pháp, Nga và EU đã thúc đẩy các cuộc đối thoại giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia, với hi vọng dẫn đến việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức và mở cửa biên giới. Tôi đã điện đàm với quan chức hai nước gần 30 lần và tiếp xúc với Ngoại trưởng Davutoglu cũng như Ngoại trưởng Armenia Edward Nalbandian. Những người theo tư tưởng bảo thủ ở cả hai nước không muốn nhượng bộ và đã gây áp lực lên chính phủ. Tuy vậy nhờ các nỗ lực của Thụy Sĩ, một thỏa thuận về việc mở cửa biên giới đang dần thành hình. Theo kế hoạch thì thỏa thuận sẽ được kí kết ở Thụy Sĩ vào tháng 10, và sau đó chỉ cần chờ các Quốc hội phê chuẩn. Tổng thống Obama đã gọi điện động viên Tổng thống Armenia; mọi thứ có vẻ đều tốt đẹp. Ngày 9/10, tôi bay đến Zurich để chứng kiến lễ kí kết với Ngoại trưởng Nga, Pháp, Thụy Sĩ và Đại diện cao cấp về đối ngoại của EU. Tuy vậy, Ngoại trưởng Armenia lại tỏ ra sợ sệt và từ chối rời khách sạn để đi tới Đại học Zurich, nơi tổ chức lễ kí kết. Tôi đã phải quay xe lại khách sạn, và cùng với Phil Gordon và đại diện của Thụy Sĩ năn nỉ hết lời. Cuối cùng thì ông ấy cũng chịu đi, nhưng kế hoạch bị chậm 3 tiếng. Sau đó, Tổng thống Obama đã gọi điện chúc mừng tôi; tờ Thời báo New York miêu tả nỗ lực của tôi là “ngoại giao limousine”. Thật sự việc này rất mệt mỏi nhưng đã đem lại một bước tiến dài cho một khu vực nhạy cảm. Cho đến nay thì quốc hội hai nước đều chưa phê chuẩn thỏa thuận này, nhưng cuộc gặp giữa hai Ngoại trưởng vào tháng 12/2013 là dấu hiệu cho một cơ hội đột phá.
Cuộc chiến ở vùng Balkan những năm 90 là sự cảnh báo về những cuộc xung đột có thể nổ ra ở châu Âu bởi sự thù hận lâu đời. Khi tôi đến thăm Bosnia vào tháng 10/2010 trong một chuyến đi 3 ngày tới vùng Balkan, tôi rất hài lòng về các tiến bộ nhưng cũng tỉnh táo nhận ra còn nhiều thứ phải làm. Giờ đây trẻ em có thể đến trường, phụ huynh có thể đi làm trong an toàn, tuy nhiên chưa có đủ việc làm và các khó khăn kinh tế đang dần hiện rõ. Các thù hằn dân tộc và tôn giáo dẫn đến cuộc chiến đã dịu xuống, nhưng các lực lượng theo chủ nghĩa phân biệt và chủ nghĩa dân tộc vẫn rục rịch nổi lên. Đất nước này bao gồm hai nước cộng hòa: một do người Croat và Hồi giáo thống trị, một do người Serb lãnh đạo. Người Serb từ chối mọi nỗ lực hướng tới tăng trưởng và điều hành tốt; họ hi vọng mù quáng rằng có thể nhập vào Serbia hay trở thành một quốc gia độc lập. Triển vọng ổn định và các cơ hội khi hội nhập vào EU và NATO rất khó trở thành hiện thực. tại Sarajevo, tôi đã tham gia vào một cuộc thảo luận mở với sinh viên và các nhà hoạt động xã hội ở Nhà hát Quốc gia. Một thanh niên đứng dậy phát biểu về chuyến thăm nước Mỹ theo dạng trao đổi văn hóa do Bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ, anh ta gọi nó là “một trong những trải nghiệm đẹp nhất” trong cuộc đời và đề nghị tôi tiếp tục ủng hộ và mở rộng các dự án giao lưu như vậy. Khi tôi hỏi taijsa o quan trọng của chuyến đi, anh ta trả lời: “Tôi đã học được cách tha thứ thay vì trả thù, làm việc với mọi người và tôn trọng lẫn nhau… Có các thành viên đến từ Serbia và Kosovo, họ không quan tâm đến các căng thẳng giữa hai quốc gia; chúng tôi đều là bạn, chúng tôi có thể nói chuyện, chúng tôi có thể giao lưu mà không bị thứ gì cản trở.” Tôi rất thích cụm từ “tha thứ thay vì trả thù” - nó đã miêu tả hoàn hảo quá trình chuyển giao mà người dân vùng Balkan đang phải trải qua, đó là cách duy nhất để hàn gắn các vết thương cũ.
Sau khi rời Bosnia, điểm đến tiếp theo của tôi là Kosovo. Trong thập kỷ 90 của thế kỉ trước, Kosovo là một tỉnh thuộc Serbia, và cộng đồng người Albania chiếm đa số ở đây đã bị quân đội của Tổng thống Milosevic tàn sát và bắt buộc di tản. Vào năm 1999, một chiến dịch không kích của NATO đã được triển khai, nhắm vào Belgrade và các thành phố khác để ngăn chặn cuộc thanh trừng sắc tộc. Đến năm 2008 thì Kosovo tuyên bố độc lập và được một số nước công nhận chính thức. Tuy vậy, Serbia từ chối công nhận quốc gia mới này và tiếp tục gây ảnh hưởng lên vùng phía Bắc Kosovo. Ở vùng này có nhiều người Serb sinh sống; các bệnh viện, trường học và tòa án do chính quyền Belgrade điều hành, và quân đội Serbia lo liệu các vấn đề an ninh. Tình hình trong khu vực trở nên bất ổn vì căng thẳng giữa Serbia và Kosovo; họ cũng không thể theo đuổi quá trình gia nhập EU. Tuy nhiên, các thù hận lâu đời cần phải được giải quyết; nhiệm vụ của tôi là phải đưa hai bên tới một thỏa thuận chấp nhận được. Khi tôi tới Pristina (thủ đô của Kosovo), các đám đông đã tập trung và vẫy cờ Mỹ ủng hộ khi đoàn xe đi qua, trẻ em được ngồi trên vai của người lớn. Ở quảng trường chính của thành phố có một bức tượng của Bill rất lớn, và đoàn xe phải dừng lại vì mọi người đã đứng chật kín xung quanh. Tôi nhảy ra khỏi xe, chào mọi người, bắt tay và ôm lấy họ. Gần đó có một cửa hàng quần áo nhỏ với tên gọi “Hillary”; người chủ hàng cho biết ông ấy đặt tên cửa hàng theo tôi để “Bill không thấy cô đơn trong quảng trường”. Vài tháng sau, các đại diện của Kosovo và Serbia đã lần đầu tiên gặp mặt ở Brussels dưới sự bảo trợ của EU. Các nhà ngoại giao Mỹ cũng tham gia vào cuộc gặp, hối thúc hai bên cùng nhường nhịn để tiến tới sự bình thường hóa quan hệ và mở ra cánh cửa gia nhập EU bằng cách giải quyết các vấn đề biên giới. Cuộc đàm phán kéo dài hơn 18 tháng, và hai bên đã đạt được những thỏa thuận cơ bản về tự do qua lại biên giới, hải quan và kiểm soát đường biên. Dù Serbia vẫn không công nhận nền độc lập của Kosovo, họ đã bỏ sự phản đối với việc Kosovo tham gia vào các cơ chế khu vực. Cùng lúc đó, tôi đề nghị NATO tiếp tục chiến dịch gìn giữ hòa bình ở Kosovo với 5000 lính đến từ 31 nước. Tuy nhiên các vấn đề mấu chốt vẫn chưa được giải quyết, một phần do chính phủ lên nắm quyền ở Serbia năm 2012 hướng theo chủ nghĩa dân tộc. Tôi và bà Catherine Ashton, Đại diện cấp cao của EU về chính sách đối ngoại và an ninh đã quyết định đến thăm hai nước trên vào tháng 10/2012 nhằm thúc đẩy quá trình đàm phán. Cathy là một đối tác tuyệt vời trong nhiều vấn đề; bà ấy từng là Chủ tịch Thượng viện Anh dưới thời Thủ tướng Gordon Brown, sau đó sang làm Ủy viên thương mại châu Âu và Đại diện về đối ngoại và an ninh cho đến nay. Sự bổ nhiệm đó là một bất ngờ lớn do bà ấy không phải là một nhà ngoại giao đúng ngạch (giống tôi), những thật ra thì bà Ashton làm việc rất hiệu quả và sáng tạo. Bà ấy rất thân thiện và dễ gần (dù là một Nam tước), và chúng tôi đã cùng xử lý nhiều vấn đề ở châu Âu, Trung Đông và đặc biệt là Iran. Khi đến Kosovo, Thủ tướng Hashim Thaci đã nói với chúng tôi: “Đây chưa phải là Kosovo mà chúng tôi mơ ước. Chúng tôi muốn Kosovo gia nhập vào cộng đồng châu Âu, và còn rất nhiều việc phải làm.”; bên cạnh đó, lãnh đạo cộng đồng Hồi giáo, bà Atifete Jahjaga đã giúp đỡ trong rất nhiều việc. Chúng tôi cũng đã gặp những đại diện của cộng đồng người Serb thiểu số trong một nhà thờ Chính thống giáo ở Pristina, họ khá lo lắng về tương lai ở một nước Kosovo độc lập, tuy nhiên các động thái gần đây của chính phủ như cung cấp việc làm cho người Serb là một bước tiến đáng kể trong quá trình hòa giải dân tộc mà chúng tôi mong đợi. Theo Cathy thì hoạt động ngoại giao này không chỉ là bình thường hóa quan hệ giữa hai nước mà còn là thúc đẩy sự hòa nhập và đem lại cảm giác gần gũi cho cộng đồng Serb ở phía Bắc Kosovo. Vào tháng 4/2013, nhờ có các nỗ lực của Cathy, Thủ tướng Kosovo Hashim Thaci và Thủ tướng Serbia Ivica Dacic đã kí kết một thỏa thuận lịch sử để xác định biên giới giữa hai nước, tiến tới bình thường hóa quan hệ và gia nhập EU. Kosovo đồng ý trao thêm quyền tự trị cho cộng đồng Serb ở miền Bắc, và Serbia đồng ý rút quân khỏi khu vực này; hai bên không can thiệp vào quá trình hội nhập với châu Âu của nhau. Nếu thỏa thuận này được tôn trọng và thực hiện, người dân Kosovo và Serbia cuối cùng cũng có cơ hội xây dựng một tương lai hòa bình, thịnh vượng.
Chuyến công tác cuối cùng của tôi với tư cách Ngoại trưởng là chuyến thăm Bắc Ireland vào tháng 12/2012. Ở đó người dân đang phải chịu đựng rất nhiều từ các xung đột trong quá khứ; còn rất nhiều công việc phải làm, với vấn đề lớn nhất là tạo ra các hoạt động kinh tế và đem lại sự giàu có cho cả hai cộng đồng Cơ đốc và Tin Lành. Khi Bill vừa nhậm chức Tổng thống, Thời kì tồi tệ (the Troubles) ở Bắc Ireland đã kéo dài vài thập kỷ. Người Tin Lành muốn ở lại trong Vương quốc Anh, nhưng cộng đồng Cơ đốc lại muốn sáp nhập vào Cộng hòa Ireland ở phía nam, và hai bên đã có xung đột trong thời gian dài. Bắc Ireland là một hòn đảo trong một hòn đảo; ở đây người ta chú ý đến cả những dấu hiệu phân biệt cộng đồng nhỏ nhất như bạn đến nhà thờ nào, con cái bạn học trường nào, bạn cổ vũ câu lạc bộ bóng đá nào, bạn đi với ai, vào lúc nào, trên phố nào… Và đó là một ngày bình thường. Vào năm 1995, Bill bổ nhiệm Thượng nghị sĩ George Mitchell làm đại diện đặc biệt ở Bắc Ireland. Bill trở thành Tổng thống Mỹ đầu tiên đến thăm Bắc Ireland cũng vào năm đó, và chúng tôi đã có vinh dự thắp sáng cây thông Noel của Belfast trước một đám đông khá lớn. Sau đó gần như mỗi năm tôi đều đến thăm Bắc Ireland một lần, và vẫn tích cực tham gia vào công việc ở đây khi làm Thượng nghị sĩ. Năm 1998, tôi đã tham gia tổ chức Hội nghị Tiếng nói sống còn ở Belfast, với mục đích thể hiện ước mong hòa bình của phụ nữ Bắc Ireland. Khi tôi phát biểu, tôi thấy các lãnh đạo của Sinn Fein như Gerry Adams và Martin McGuinness; ở một phía khác là những người thuộc phái thân Anh; sự xuất hiện của họ ở một hội nghị dành cho phụ nữ như vậy thể hiện rõ mong muốn hòa giải và kết thúc bạo lực. Thỏa thuận “Ngày thứ sáu tốt đẹp” là một thắng lợi ngoại giao lớn của Bill và George Mitchell, được kí trong cùng năm ấy và tạo ra con đường đi tới hòa bình cho Bắc Ireland. Đó là một minh chứng cho lòng can đảm của người dân Bắc Ireland, khi “hi vọng và lịch sử cùng hòa nhịp” theo lời của nhà thơ vĩ đại người Ireland Seamus Heaney. Việc triển khai trong thực tế sẽ không dễ dàng, nhưng các lợi ích đã hiển hiện trước mắt: tỉ lệ thất nghiệp giảm, giá trị nhà ở tăng và nhiều công ty Mỹ đã đến đầu tư kinh doanh.
Khi tôi nhậm chức Ngoại trưởng vào năm 2009, “Con hổ Celtic” đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Các rào cản và dây thép gai không còn nữa, nhưng quá trình giải giáp vũ khí và chuyển giao quyền lực đang có nguy cơ bị dừng lại; nhiều cộng đồng Cơ đốc và Tin Lành vẫn sống tách biệt, thạm chí còn xây cả những “bức tường hòa bình” để ngăn cách hai bên. Tháng 3/2009, hai lính Anh bị giết ở hạt Antrim và một cảnh sát bị giết ở hạt Armagh. Các vụ giết người thay vì kích động bạo lực đã tạo ra hiệu quả trái ngược hẳn. Người Cơ đốc và Tin Lành đã cùng tuần hành trong trật tự, đi dự lễ nhà thờ cùng nhau và tuyên bố không muốn trở lại với ngày xưa đẫm máu nữa. Bắc Ireland đã tiến rất xa thay vì lại rơi vào vòng luẩn quẩn của bạo lực. Tôi đến thăm Belfast vào tháng 10/2009 và đã hối thúc Thủ tướng Peter Robinson và Phó Thủ tướng Martin McGuinness về việc đẩy mạnh quá trình giải tán các nhóm du kích bán quân sự, và kiểm soát chặt chẽ quá trình xây dựng chính sách và luật pháp của Bắc Ireland. Trong bài phát biểu trước Quốc hội Bắc Ireland, tôi nhắc nhở họ: “Đã có những lúc tưởng như quá trình tìm kiếm hòa bình đang đi vào ngõ cụt, tuy nhiên các bạn đã tìm ra cách để tiến lên vì quyền lợi của người dân Bắc Ireland. Các bạn đã cho cả thế giới thấy những kẻ thù ghê gớm nhất có thể vượt qua mọi khó khăn để hợp tác vì lợi ích chung, do đó tôi yêu cầu các bạn bước tiếp với tinh thần gan dạ và quyết tâm không thể lay chuyển đó. Tôi hứa rằng Hoa Kỳ sẽ luôn đứng sau các bạn trên con đường tiến tới hòa bình và ổn định.” Ngay tuần sau, một cảnh sát đã bị trọng thương trong một vụ đánh bom xe hơi nhưng tấm màn hòa bình vẫn không bị làm rách. Tháng 2/2010, các đảng phái đã thông qua Thỏa thuận Hillsborough về chia sẻ quyền lực; quá trình gìn giữ hòa bình vẫn diễn ra mặc cho các nỗ lực chống phá của các phần tử cực đoan. Vào tháng 6/2012, Nữ hoàng Elizabeth đã đến thăm Bắc Ireland và bắt tay Martin McGuinness - một cử chỉ mà vài năm trước không ai có thể tưởng tượng ra. Cuối năm đó, tôi trở lại Belfast và gặp người bạn cũ Sharon Haughey. Vào năm 1995 cô gái 14 tuổi ấy đã gửi một bức thư rất xúc động cho Bill trong đó miêu tả ước mơ của cô về Bắc Ireland trong tương lai. Anh ấy đã đọc một phần trong buổi lễ thắp sáng cây thông ở Belfast: “Cả hai bên đã đau đớn. Cả hai bên phải tập cách tha thứ.” Sau này Sharon đã đến văn phòng Thượng nghị sĩ của tôi thực tập, và làm việc với cộng đồng gốc Irish đông đảo ở bang New York. Khi về quê cô ấy đã ra tranh cử và được bầu làm người đứng đầu hạt Armagh. Khi gặp nhau vào năm 2012, Sharon thông báo cuối tháng cô ấy sẽ kết hôn; tôi nghĩ về gia đình trẻ ấy và toàn bộ những đứa trẻ của Bắc Ireland. Nhờ có thỏa thuận “Ngày thứ sáu tốt đẹp”, chúng có cơ hội thoát khỏi các bóng ma của Thời kì tồi tệ và tôi hi vọng họ sẽ không bao giờ phải trở lại thời kì đó; quá trình tìm kiếm hòa bình và phát triển của người dân Bắc Ireland sẽ trở thành nguồn cảm hứng cho phần còn lại của châu Âu và toàn thế giới.
Phần 5
Nước Nga: quá trình tái cài đặt quan hệ dang dở
Tổng thống Nga Vladimir Putin là ví dụ điển hình cho câu nói “Người cứng rắn phải đối mặt với lựa chọn khó khăn”. Thế giới quan của Putin được định hình bởi sự ngưỡng mộ lịch sử hào hùng của nước Nga, lợi ích lâu dài của việc kiểm soát các nước láng giềng và quyết tâm cá nhân để giúp nước Nga không bao giờ tỏ ra yếu đuối và phụ thuộc vào phương Tây một lần nữa. Ông ấy muốn khôi phục sức mạnh Nga bằng cách kéo các nước láng giềng lại gần và kiểm soát nguồn năng lượng của họ; bên cạnh đó, Putin cũng muốn tham gia sâu hơn vào vùng Trung Đông để tăng cường ảnh hưởng của Moscow, và hạn chế nguy cơ của cộng đồng Hồi giáo ở phía Nam nước Nga. Để đạt được các mục tiêu đó, ông ấy tìm cách giảm sự hiện diện của Mỹ ở vùng Trung và Đông Âu - các vùng được coi là vùng ảnh hưởng truyền thống của Nga - và ngăn chặn nỗ lực giúp đỡ của Mỹ với phong trào Mùa xuân Arập. Các điều trên đã lí giải tại sao Putin đã ép Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych phải từ bỏ quá trình hợp tác với EU vào cuối năm 2013, và việc sáp nhập Crimea sau khi chính phủ Yanukovych sụp đổ. Nếu Putin kiềm chế và không can thiệp vào miền Đông Ukraine, thì lí do chính không phải là ông ấy cảm thấy không còn hứng thú với quyền lực, lãnh thổ và ảnh hưởng. Putin xem địa chính trị như một trò chơi tổng bằng không (zero-sum), nghĩa là nếu có người thắng thì phải có kẻ thua. Quan điểm này tuy lạc hậu nhưng lại rất nguy hiểm, đòi hỏi nước Mỹ phải biểu trưng cả sức mạnh và sự kiên nhẫn. Để kiểm soát quan hệ với Nga, chúng ta phải hợp tác với họ trong các vấn đề cụ thể, và kêu gọi các nước khác cùng ngăn chặn và hạn chế các động thái tiêu cực của họ. Qua 4 năm làm Ngoại trưởng, tôi thấy rằng đó là một sự cân bằng rất khó khăn nhưng cần thiết.
Winston Churchill từng phát biểu: “Trong một châu Âu thống nhất phải có nước Nga” và khi Liên Xô sụp đổ, điều đó đã có hi vọng trở thành hiện thực. Tôi nhớ lại cảm giác hưng phấn khi nhìn Boris Yeltsin đứng trên một chiếc xe tăng ở Moscow và đánh bại cuộc đảo chính nhắm vào chính phủ mới ở Nga. Yeltsin đã sẵn sàng hủy bỏ các kế hoạch tên lửa nhắm vào các thành phố Mỹ, tiêu hủy 50 tấn plutonium và ký một thỏa thuận hợp tác với NATO. Tuy nhiên ông ấy đã gặp phải sự phản đối mạnh mẽ trong nước từ các lực lượng muốn giữ khoảng cách với Mỹ và châu Âu, kiểm soát các nước láng giềng và chống lại chính phủ Yeltsin. Sau khi phẫu thuật tim năm 1996, Yeltsin không còn đủ sức khỏe để quản lý hệ thống chính trị phức tạp của Nga. Ông ấy đột ngột từ chức vào đêm giao thừa năm 1999, 6 tháng trước khi nhiệm kì tổng thống của ông ấy kết thúc, tạo tiền đề cho người kế thừa được Yeltsin chọn lựa: Vladimir Putin đến từ St. Petersburg, một cựu sĩ quan KGB không ai biết tới. Nhiều người cho rằng Putin được chọn vì sự trung thành với Yeltsin và phong cách lãnh đạo mạnh mẽ; Putin sống rất kỉ luật, có sức khỏe tốt, thường xuyên tập luyện judo. Ông ấy đem đến hi vọng và niềm tin cho những người Nga đang phải vật lộn trong các biến cố chính trị và suy thoái kinh tế. Tuy nhiên sau này Putin cũng cho thấy bản chất nhạy cảm và độc tài, áp chế mọi lời phê bình, tranh luận hoặc chống đối từ báo chí và các tổ chức phi chính phủ. Vào năm 2001 sau khi gặp Putin lần đầu tiên, Tổng thống Bush đã tuyên bố: “Tôi đã hiểu được bản chất của Putin”. Hai nhà lãnh đạo này có cùng quan điểm về cuộc chiến chống khủng bố, và Putin đã lợi dụng cuộc chiến chống al-Qaeda để liên hệ với chiến dịch quân sự ở Chechnya. Nhưng không lâu sau đó, quan hệ hai nước xấu dần đi khi cuộc chiến ở Iraq diễn ra, các biểu hiện độc đoán của Putin và cuộc chiến năm 2008 với Georgia. Putin đã để một số nhà tài phiệt (oligarch) thân cận nắm giữ nguồn lợi thu được nhờ trữ lượng dầu khí thay vì đầu tư vào khu vực tư nhân và phát triển cơ sở hạ tầng. Ông ấy theo đuổi việc mở rộng ảnh hưởng của nước Nga, làm cho các nước láng giềng lo ngại về một sự bành trướng kiểu Xôviết cũ; ví dụ điển hình là Nga đã dọa cắt nguồn cung và tăng giá khí đốt cho Ukraine và các nước khác vào năm 2006 và 2009. Báo chí Nga cũng bị tấn công dữ dội, các tờ báo, đài truyền hình và blogger gặp nhiều áp lực từ Kremlin. Từ năm 2000, Nga được đánh giá là nơi nguy hiểm thứ 4 trên thế giới với các nhà báo, không như Iraq nhưng tồi hơn Somalia và Pakistan. Từ 2000 đến 2009 đã có 20 nhà báo bị giết ở Nga, chỉ có một vụ tìm được và kết án kẻ sát nhân.
Khi tôi đến thăm Moscow vào tháng 10/2009, một việc quan trọng cần phải làm là tuyên bố ủng hộ tự do báo chí và chống lại chiến dịch đe dọa. Trong buổi tiếp đón ở tòa nhà Spaso - nơi ở chính thức của các Đại sứ Mỹ ở Nga từ năm 1933 - tôi đã gặp gỡ các nhà báo, luật sư và các nhà hoạt động xã hội. Họ đã thấy các đồng nghiệp bị quấy rối, đe dọa và thậm chí giết hại, nhưng họ vẫn làm việc, viết bài và phát biểu như trước. Tôi đảm bảo với họ rằng nước Mỹ sẽ đưa ra những lo ngại về nhân quyền với chính phủ Nga bằng tất cả các con đường. Địa điểm cũng quan trọng như nội dung cuộc nói chuyện; tôi có thể tiếp xúc với nhiều nhà hoạt động ở Spaso, nhưng người dân Nga bình thường cũng là đối tượng của tôi. Tôi đã đề nghị đại sứ quán tìm một đài phát thanh độc lập sẵn sàng mời tôi đến; và đài Tiếng vọng Moscow đã được chọn, các nhân viên đại sứ quán chắc chắn rằng đây là một trong những đài độc lập, cởi mở và dũng cảm nhất ở Nga. Trong buổi phỏng vấn trực tiếp, tôi đã được hỏi về một số vấn đề trong quan hệ Nga - Mỹ như Georgia và Iran, sau đó chuyển đến vấn đề nhân quyền. Tôi nói: “Tôi chắc chắn rằng nền dân chủ có lợi cho nước Nga, và việc tôn trọng quyền con người, sở hữu một hệ thống tư pháp độc lập, một ngành truyền thông tự do sẽ góp phần xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh; đó là tiền đề cho sự thịnh vượng của tất cả mọi người. Chúng tôi sẽ tiếp tục ủng hộ những người theo đuổi các giá trị đó.” Chúng tôi bàn luận về các vụ bắt giữ, đánh đập và giết hại các nhà báo. “Tôi nghĩ mọi người muốn chính phủ ra mặt và phản đối các tội ác này, tìm cách ngăn chặn và đem lại công lý cho những người bị hại.” Đài Tiếng vọng Moscow vẫn tiếp tục hoạt động cho đến ngày nay, tuy nhiên sau vụ sáp nhập Crimea năm 2014 thì trang web của đài đã tạm thời bị chặn, cho thấy điện Kremlin đang cố gắng xóa bỏ mọi tiếng nói chống đối.
Sau 8 năm làm Tổng thống, Putin gặp phải sự hạn chế nhiệm kì theo hiến pháp. Do vậy ông ấy đã đổi vị trí với Thủ tướng của mình, Dmitri Medvedev, lúc đầu thì sự trao đổi này giống như một chiêu bài để Putin giữ quyền lực từ một vị trí khác. Nhưng Medvedev đã làm mọi người bất ngờ: cởi mở hơn với các quan điểm phê bình, thân thiện hơn với nước ngoài và mong muốn đa dạng hóa nền kinh tế Nga. Khi nhậm chức, tôi vẫn có chút nghi ngờ với bộ đôi lãnh đạo của nước Nga, tuy nhiên vẫn có các lĩnh vực mà hai bên có thể hợp tác hiệu quả. Trên cương vị Thượng nghị sĩ tôi thường hay phê phán các chính sách của Putin, nhưng tôi hiểu nếu chỉ xem Nga là nguy cơ thì sẽ bỏ qua nhiều cơ hội và lợi ích. Câu hỏi liệu các quốc gia có thể vừa hợp tác vừa xung đột là vấn đề tranh luận truyền thống trong quan hệ quốc tế; nước Mỹ có nên ngừng đàm phán về kiểm soát vũ khí hay thương mại do cuộc chiến của Nga ở Georgia, hay các vấn đề đó nên tồn tại song song? Sự liên kết giữa các vấn đề đó thường tạo ra ấn tượng xấu nhưng lại là rất cần thiết trong ngoại giao. Trong năm 2009. Tổng thống Obama và tôi cho rằng nước Mỹ có thể đạt được các lợi ích quốc gia cốt lõi với Nga thông qua cách tiếp cận với 3 phần: tìm các lĩnh vực hợp tác đem lại lợi ích chung; giữ thái độ cứng rắn trong các vấn đề tranh chấp và tiếp xúc thường xuyên với nhân dân Nga - cách tiếp cận này được gọi là quá trình “tái cài đặt”. Người đứng đầu quá trình này là Bill Burns, từng có 3 nhiệm kì làm Đại sứ ở Nga và có những hiểu biết sâu sắc về cấu trúc quyền lực ở Kremlin. Medvedev là một nhà lãnh đạo trẻ, lên nắm quyền mà không có các trải nghiệm thực sự về Chiến tranh lạnh; ngược lại Putin đã làm việc trong KGB trong những năm 1970 và 1980, những năm tháng quan trọng trong Chiến tranh lạnh. Theo quan điểm của tôi thì dù thay đổi vị trí, Putin vẫn nắm trong tay quyền lực rất lớn và điều đó gây khó khăn cho quá trình mở rộng hợp tác; nếu có thì phải là những vấn đề đem lại lợi ích rõ ràng cho cả hai bên.
Cuộc gặp đầu tiên của tôi với Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov diễn ra vào tháng 3/2009. Richard Holbrooke (đã biết Lavrov từ khi cùng làm Đại sứ ở Liên Hợp Quốc trong những năm 1990) cho biết Lavrov là một nhà ngoại giao tài giỏi, có kiến thức sâu rộng, nguồn năng lượng dồi dào và một sự kiêu ngạo không hề nhỏ. Lavrov luôn chuẩn bị bề ngoài rất kĩ lưỡng, nói tiếng Anh rất trôi chảy, thích thơ Pushkin và uống rượu whisky. Ông ấy có một mối quan hệ căng thẳng với người tiền nhiệm của tôi - Condoleezza Rice, đặc biệt là sau vụ Georgia. Các căng thẳng đó vẫn chưa biến mất, nhưng nếu muốn tạo ra tiến triển trong việc kiểm soát vũ khí hạt nhân, trừng phạt Iran hay vận chuyển hậu cần tới Afghanistan thì hai bên cần hợp tác; có lẽ một câu chuyện đùa có thể làm tan băng. Trong chính trị thì khiếu hài hước là rất cần thiết, có nhiều khi bạn phải tự cười chính mình. Khi còn làm Thượng nghị sĩ, tôi đã 3 lần kể chuyện cười về quần âu trên chương trình của David Letterman; trong chiến dịch năm 2008, tôi đã xuất hiện trên chương trình “Trực tiếp tối thứ 7” với Amy Poehler như một bản sao của mình với tiếng cười đặc trưng. Trong ngoại giao, vì các cuộc đối thoại thường được xây dựng kĩ lưỡng và sự khác biệt ngôn ngữ cũng như văn hóa nên muốn tỏ ra hài hước là rất khó. Trong một bài phát biểu ở Hội nghị an ninh Munich vào tháng 2, Phó Tổng thống Biden đã nói: “Bây giờ là lúc để nhấn nút tái cài đặt và trở lại các lĩnh vực mà chúng ta có thể và nên hợp tác với Nga.” Tôi thích ý tưởng “tái cài đặt” - không phải là để bỏ qua các bất đồng mà là để đưa chúng vào một kế hoạch lớn hơn, bên cạnh các vấn đề có thể hợp tác. Trong khi bàn luận với đội ngũ để chuẩn bị cho cuộc gặp với Lavrov ở Geneva, chúng tôi đã nảy ra một ý tưởng: tại sao không đưa cho Lavrov một nút tái cài đặt thật? Điều này có vẻ không chính thống, tuy nhiên nó có thể tạo ra tiếng cười thoải mái, và thể hiện cam kết về một sự khởi đầu mới làm lu mờ các bất đồng. Ngoại trưởng Lavrov và tôi gặp nhau ở phòng Panorama của khách sạn InterContinental, nổi tiếng với tầm nhìn toàn cảnh thành phố Geneva. Trước khi chúng tôi ngồi xuống, tôi chuẩn bị một chiếc hộp nhỏ màu xanh có đính ruybăng. Sau khi camera quay đi, tôi mở hộp và lấy ra một cái nút to màu đỏ trên nền vàng, có từ tiếng Nga “peregruzka”. Chúng tôi cùng cười và ấn nút. Tôi hỏi: “Chúng tôi tìm mãi mới ra từ này, ông thấy có được không?” Ông Lavrov nhìn kĩ hơn, và những người Mỹ trong phòng nín thở. “Không được rồi” - liệu đây có phải là một sự cố mang tầm quốc tế? Tôi vẫn tiếp tục cười, và ông ấy nói phải dùng “perezagruzka”, cái nút này có nghĩa là “chặt chem.”. Mọi người thở phào, và tôi nói chúng tôi sẽ không để ông “chặt chem.” đâu. Đó không phải là một thời khắc tự hào của kĩ năng ngôn ngữ Mỹ, nhưng lỗi dịch thuật này đã làm tan băng và in sâu khái niệm “tái cài đặt” vào tâm trí mọi người; Lavrov nói sẽ đem cái nút về và để trên bàn làm việc. Sau đó Philippe Reines (tác giả chính của câu chuyện đùa này) đã cố gắng sửa sai: anh ấy đến gặp Đại sứ Nga ở Thụy Sĩ và hỏi mượn cái nút để dán lại nhãn, ông ấy trả lời: “Tôi phải hỏi ý kiến của Bộ trưởng đã” - “Nếu ông không đưa cho tôi thì Bộ trưởng của tôi sẽ tống tôi đến vùng Siberia đấy!”, Philippe nói, và thú thật tôi thấy việc đấy cũng khá hay.
Trong cuộc gặp đầu tiên giữa Tổng thống Obama và Tổng thống Medvedev ở London vào tháng 4/2009, phái đoàn Mỹ và Nga ngồi đối diện trên bàn ăn ở toà nhà Winfield, và tôi là người phụ nữ duy nhất trong phòng. Đây là chuyến công du đầu tiên sau khi nhậm chức của Tổng thống, bao gồm việc tham dự một hội nghị G-20, một hội nghị thượng đỉnh NATO và thăm một số đồng minh chủ chốt. Tôi rất vui được tham gia chuyến đi này, và từ đó cho đến chuyến đi cuối cùng tới Myanmar năm 2012, chúng tôi đã có thể bàn luận và xây dựng chiến lược trong khi tránh xa sự ồn ào và bận rộn ở Washington. Cũng trong chuyến thăm đầu tiên đó, khi đến Prague ông ấy muốn nói chuyện riêng với tôi. Tôi tự hỏi không biết có vấn đề gì nhạy cảm đến mức này, và ông ấy nói thầm: “Bà bị kẹt cái gì đó trong kẽ răng đấy.” Thật là xấu hổ, nhưng rất vui khi biết có một người bạn luôn sát cánh trong cả những chuyện nhỏ nhặt như vậy. Trong cuộc gặp với người Nga, hai Tổng thống đã đề ra ý tưởng về một hiệp ước mới nhằm cắt giảm số lượng đầu đạn hạt nhân và tìm ra tiếng nói chung trong các vấn đề Afghanistan, khủng bố, thương mại và Iran, mặc dù bất đồng quan điểm về hệ thống phòng thủ tên lửa và Georgia. Ông Medvedev cho rằng cuộc phiêu lưu của Nga ở Afghanistan trong thập niên 1980 là rất “đáng tiếc” và họ sẵn sàng cho phép Hoa Kỳ vận chuyển hàng hóa sát thương qua lãnh thổ Nga để tới Afghanistan. Điều này rất quan trọng vì như thế ta sẽ không còn phụ thuộc vào Pakistan - con đường duy nhất để vận chuyển người và thiết bị vào Afghanistan. Một bất ngờ là Medvedev đã công nhận rằng nước Nga đánh giá quá thấp khả năng phát triển hạt nhân của Iran, “Hóa ra các bạn đã đúng”. Nga có quan hệ khá phức tạp với Iran: họ đã bán vũ khí và giúp Tehran xây dựng một nhà máy hạt nhân, nhưng cũng không muốn thấy vũ khí hạt nhân được phổ biến ở gần khu vực Caucasus đầy bất ổn. Sau đó với phiếu tán thành của Nga, các biện pháp trừng phạt mạnh tay với Iran đã được thông qua thuận lợi. Tuy nhiên Medvedev vẫn phản đối kế hoạch phòng thủ tên lửa của Mỹ ở châu Âu dù chúng tôi đã trình bày nhiều lần rằng hệ thống đó là để đối phó với các nguy cơ từ Iran chứ không phải Nga. Tổng thống Obama hứa sẽ đẩy nhanh thỏa thuận về kiểm soát vũ khí hạt nhân, hợp tác sâu hơn trong vấn đề Afghanistan và ủng hộ Nga gia nhập WTO. Đó là một cuộc thảo luận kĩ lưỡng và thẳng thắn về các vấn đề nhạy cảm nhờ sự cởi mở của Tổng thống Medvedev -công cuộc tái khởi động đang được bắt đầu. Phái đoàn đàm phán do Ellen Tauscher và Rose Gottemoeller dẫn đầu đã làm việc trong 1 năm với người Nga để làm rõ các điều khoản của thỏa thuận START mới, với chức năng giới hạn số lượng đầu đạn hạt nhân, tên lửa và máy bay thả bom của Nga và Mỹ. Sau khi hai Tổng thống kí hiệp ước đó vào năm 2010, tôi đã rất cố gắng thuyết phục các đồng nghiệp cũ ở Thượng nghị viện phê chuẩn nó; thỏa thuận này cung cấp một cơ chế để giám sát người Nga, nếu họ không tuân thủ thì chúng ta có thể rút ra bất cứ lúc nào. Tôi nhắc nhở mọi người rằng ngay cả Tổng thống Reagan, với tư duy “tin tưởng nhưng phải xác minh”, đã kí thỏa thuận giải trừ quân bị với Liên Xô; tôi nhấn mạnh đây là thời khắc quan trọng khi thỏa thuận START cũ đã hết hạn, và gần một năm qua chúng ta không thể gửi thanh tra đến Nga và kiểm tra các kho tên lửa của họ - một khoảng trống nguy hiểm, không thể để nó tiếp diễn được. Cuối cùng Thượng nghị viện cũng phê chuẩn hiệp ước này với số phiếu 71-26, đây là một chiến thắng của sự nhất trí giữa hai đảng, quan hệ Mỹ - Nga và một thế giới an toàn hơn. Qua việc này, Tổng thống hai nước đã thiết lập một quan hệ cá nhân tốt đẹp, đem lại nhiều cơ hội hợp tác giữa hai nước trong tương lai. Khi gặp Tổng thống Medvedev ở Moscow năm 2009, ông ấy nói rằng muốn thành lập một khu công nghệ cao ở Nga giống như thung lũng Silicon. Tôi gợi ý ông ấy đến thăm tận nơi; ông ấy đã đến vào năm 2010 và rất ấn tượng với những gì được quan sát. Đây có thể là khởi đầu của sự đa dạng hóa nền kinh tế nước Nga mà Medvedev ấp ủ từ lâu - với điều kiện Putin cho phép nó xảy ra.
Công cuộc tái cài đặt động đã đem đến một số thành công bước đầu, như việc áp đặt các biện pháp trừng phạt mạnh tay lên Iran và Bắc Triều Tiên, mở ra con đường tiếp vận từ phía Bắc Afghanistan, giúp Nga gia nhập WTO, thiết lập vùng cấm bay ở Libya và mở rộng hợp tác chống khủng bố quốc tế. Tuy nhiên cuối năm 2011 tình hình đã thay đổi: tháng 9, Tổng thống Medvedev tuyên bố sẽ không tái tranh cử, và Putin gần như chắc chắn sẽ trở lại ghế Tổng thống vào năm 2012. Như vậy các suy đoán của tôi 4 năm trước về sự thay đổi vị trí là khá chính xác, Medvedev chỉ là người giữ chỗ cho Putin mà thôi.
Tháng 5/2012, Putin chính thức trở lại cương vị Tổng thống và ngay sau đó từ chối lời mời đến dự hội nghị thượng đỉnh G-8 tại Trại David. Một làn gió mới đang thổi tới từ phía đông; tháng 6, tôi gửi cho Tổng thống Obama một bản lưu ý, trong đó nêu ra các quan điểm cá nhân: Chúng ta không còn làm việc với Medvedev và cần có đường lối cứng rắn hơn. Putin “không tin tưởng nước Mỹ và luôn nghi ngờ các hành động của chúng ta”, ông ấy có ý định xây dựng lại vùng ảnh hưởng truyền thống của Nga ở Đông Âu và Trung Á dưới chiêu bài “hội nhập khu vực”, nhưng thực ra đó là sự phục hưng của một đế chế trong quá khứ. Khi Tổng thống Obama gặp Putin bên lề hội nghị G-20 ở Mexico, tôi đã gợi ý không nên mềm mỏng vì Putin sẽ không lùi bước. Sau đó Nga sớm tỏ ra thiếu tinh thần hợp tác trong nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là xung đột ở Syria. Họ đã đứng sau chính quyền của Tổng thống Assad và ngăn chặn mọi nỗ lực đưa ra một giải pháp mạnh ở Liên Hợp Quốc. Những người mong đợi công cuộc tái khởi động sẽ mở ra một thời đại thiện chí trong quan hệ Nga - Mỹ chắc hẳn sẽ rất thất vọng, tuy nhiên tôi thấy đó là một thành công vì chúng ta đã có thể tạm dừng các vấn đề khó khăn và thái độ bất hợp tác để tập trung vào các lĩnh vực hai bên có thể hợp tác và phát triển. Sau vụ sáp nhập Crimea, một số người trong Quốc hội cho rằng công cuộc tái khởi động đã dung túng cho Putin, tôi nghĩ rằng họ đã hiểu sai về cả hai. Năm 2008, Putin đã đưa quân vào Georgia và không phải chịu nhiều thiệt hại từ quốc tế; hai chiến dịch quân sự này diễn ra vì các lí do của riêng Putin, theo thời gian biểu của ông ấy và phụ thuộc vào các sự kiện ngoài thực địa. Dù cho có các ngôn từ mạnh mẽ và học thuyết đánh phủ đầu như của chính quyền Bush hay tư tưởng hợp tác trong các vấn đề lợi ích cốt lõi như của chính quyền Obama cũng không thể ngăn chặn hay khuyến khích các hành động hung hăng đó. Công cuộc tái khởi động không phải là phần thưởng; nó là sự công nhận rằng nước Mỹ có nhiều lợi ích chiến lược và an ninh quan trọng, và chúng ta cần đạt được mọi tiến triển có thể - điều này vẫn đúng cho đến tận hôm nay.
Để hiểu được sự phức tạp trong quan hệ với Nga trong thời kỳ tái khởi động và các mục tiêu của chúng ta, hãy xem xét ví dụ về công tác hậu cần của lực lượng ở Afghanistan. Sau vụ 11/9, chính quyền Bush đã thuê 2 căn cứ không quân ở Uzbekistan và Kyrgyzstan để chuẩn bị đưa quân, thiết bị và nhu yếu phẩm vào Afghanistan. Nga không phản đối do xu hướng chống khủng bố trên thế giới, nhưng họ vẫn cho rằng các nước này nằm trong vùng ảnh hưởng của mình, và Kremlin đã hối thúc người Uzbek và Kyrgyz sớm chấm dứt thỏa thuận với Mỹ. Với Putin thì Trung Á là sân sau của Nga, và ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc cũng như sự hiện diện quân sự của Mỹ tạo ra sự quan ngại sâu sắc. Đến năm 2009, Tổng thống Obama đã bắt đầu tăng quân ở Afghanistan, và dự tính sẽ bắt đầu rút quân đầu năm 2011. Quân đội Mỹ phải vận chuyển nhiều lính và đồ đạc vào hoặc ra khỏi đất nước đầy núi non và không có biển đó. Con đường duy nhất trước đó là qua Pakistan, tuy nhiên con đường này khá nguy hiểm với du kích Taliban luôn rình rập và tính khí thất thường của các quan chức Pakistan. Lầu Năm Góc muốn có thêm một con đường nữa để đảm bảo quân đội không bị cô lập, dù có tốn kém đến đâu. Chỉ còn khu vực Trung Á để xem xét; hàng hóa có thể xuống cảng ở biển Baltic và đi qua hàng nghìn dặm đường sắt từ Nga qua Kazakhstan và Uzbekistan, cuối cùng tới biên giới phía Bắc Afghanistan; quân lính có thể được không vận qua đường hàng không từ Kyrgyzstan. Kế hoạch này được gọi là “Mạng lưới phân phối phía Bắc” sẽ đem lại nguồn thu đáng kể cho một số chế độ tham nhũng, nhưng cũng đóng góp lớn cho cuộc chiến - sự đánh đổi luôn tồn tại trong chính sách đối ngoại. Trước khi kế hoạch này đi vào hoạt động, ta phải thuyết phục Nga cho phép vận chuyển thiết bị quân sự qua lãnh thổ của họ. Tổng thống Obama đã nhấn mạnh với Tổng thống Medvedev rằng mạng lưới này là ưu tiên hàng đầu của Mỹ; Medvedev cho biết ông ấy rất muốn hợp tác (và kiếm lợi từ khoản phí quá cảnh). Vào tháng 7/2009, một thỏa thuận chính thức đã được kí kết ở Moscow, trong đó Nga cho phép Mỹ vận chuyển các thiết bị quân sự sát thương qua lãnh thổ của mình để đến Afghanistan. Tuy vậy thỏa thuận này lại là bình phong cho một kế hoạch khác. Với Kremlin thì ảnh hưởng ở khu vực Trung Á là rất quan trọng, do vậy họ đã cố gắng tăng cường hiện diện quân sự ở khu vực này và hạn chế quan hệ với Mỹ. Tình hình giống với thế kỷ XIX khi Nga và Anh cùng tranh giành vị thế thống trị ở Trung Á - ngoại trừ việc Mỹ có không nhiều lợi ích ở đây và không tìm kiếm sự độc tôn. Tháng 12/2010, tôi đến thăm Kyrgyzstan, Kazakhstan và Uzbekistan. Trong một cuộc gặp với sinh viên và nhà báo ở Bishkek, tôi đã trả lời một số câu hỏi về quan hệ Mỹ - Nga. Một thanh niên hỏi: “Vị thế của Kyrgyzstan trong công cuộc tái cài đặt là như thế nào?”. Tôi giải thích rằng dù hai nước còn nhiều vấn đề bất đồng, mục tiêu của chúng tôi là hoàn thành một kế hoạch làm việc tích cực và xóa bỏ mọi hiềm nghi trước đó. Tiếp theo, một nhà báo hỏi: “Liệu có thể xảy ra một cuộc đối đầu giữa Nga và Mỹ trong khu vực, cụ thể là ở Kyrgyzstan không?”. Tôi trả lời rằng cả hai bên đều muốn tránh kịch bản đó và mục tiêu của việc tái cài đặt là giảm căng thẳng giữa Moscow và Washington, từ đó làm các quốc gia ở giữa như Kyrgyzstan bớt lo lắng hơn. Tuy vậy tôi khuyên họ: “Các bạn nên có quan hệ với nhiều nước nhưng đừng phụ thuộc vào ai cả; hãy cố cân bằng các quan hệ đó và tìm kiếm các sự giúp đỡ lớn nhất”.
Để tạo tiền đề cho việc trở lại cương vị tổng thống, vào mùa thu năm 2011 Putin đã cho đăng một bài báo, trong đó tuyên bố kế hoạch tìm lại tầm ảnh hưởng ở các nước thuộc Liên Xô cũ và tạo ra “một liên minh đa quốc gia với khả năng trở thành một cột trụ của thế giới hiện đại”; theo Putin, liên minh Âu - Á này sẽ “thay đổi cấu trúc địa chính trị và địa kinh tế của cả lục địa”. Một số người cho rằng đó chỉ là lời kêu gọi ủng hộ bầu cử, nhưng tôi lại nghĩ đây là kế hoạch thực sự của Putin, một nỗ lực nhằm khôi phục lại hào quang của Liên bang Xô Viết mà Liên minh thuế quan Âu - Á là bước đi đầu tiên. Tham vọng của Putin không dừng lại ở Trung Á, ở châu Âu ông ấy đã làm mọi cách có thể để hạn chế quan hệ của các nước Đông Âu với phương Tây như cắt nguồn cung khí đốt cho Ukraine, cấm nhập khẩu rượu vang Moldova và tẩy chay các sản phẩm từ sữa của Lithuania. Putin còn để mắt đến vùng Bắc Cực vì băng ở đây đang tan, tạo ra các con đường thương mại mới và cơ hội thăm dò dầu khí; một tàu ngầm Nga đã cắm cờ trên đáy biển gần cực Bắc, và các căn cứ quân sự cũ trong vòng cực Bắc được mở lại. Tổng thống Obama và tôi đã bàn luận rất nhiều về các giải pháp chống lại sự bành trướng này. Tôi thấy việc đến thăm các nước bị chèn ép tỏ ra khá hiệu quả: khi tôi đến thăm Georgia và kêu gọi Nga từ bỏ việc “chiếm đóng”, quân Nga đã rút khỏi một số vị trí mà họ nắm giữ từ năm 2008.
Cuộc khủng hoảng ở Ukraine và vụ sáp nhập Crimea vào năm 2014 đã làm nhiều người Mỹ thức tỉnh. Vùng đất bị lãng quên từ sau Chiến tranh lạnh đó đột nhiên xuất hiện lại trên các bản tin. Cuộc khủng hoảng này không phải là một bất ngờ; nó là biểu hiện mới nhất cho các kế hoạch dài hạn của Putin. Chính quyền Obama và các đồng minh châu Âu đã bí mật làm việc trong nhiều năm để giảm vị thế của Putin và phản công. Vào ngày 1/1/2009, tập đoàn năng lượng Gazprom (thuộc sở hữu của chính phủ Nga) đã dừng cung cấp khí tự nhiên cho Ukraine, việc này cũng làm gián đoạn nguồn nhập khí đốt của một số nước châu Âu. 10 người Ba Lan đã chết cóng trong 10 ngày đầu tiên khi nhiệt độ xuống dưới 0 độ C, ba năm trước việc này cũng đã từng xảy ra. Ukraine có một cộng đồng người Nga khá lớn, và quan hệ Nga - Ukraine lâu nay là sự kết hợp giữa gần gũi và xung đột. Vào năm 2004, cuộc Cách mạng Cam đã đưa một chính phủ thân phương Tây lên nắm quyền; chính phủ này đã đẩy mạnh hợp tác với EU và làm Putin tức giận, dẫn đến thông điệp cắt khí đốt. Động thái này đã làm cả châu Âu ớn lạnh, do hầu hết lục địa phụ thuộc vào nguồn khí đốt của Nga, nếu hôm nay là Ukraine thì ngày mai có thể là nước khác. Sau 19 ngày thì Ukraine phải chấp nhận một thỏa thuận tăng giá, và khí đốt trở lại cùng lúc Tổng thống Obama tuyên thệ nhậm chức. Trong cuộc thảo luận với Ủy ban Đối ngoại Thượng nghị viện sau đó vài ngày, tôi đã nói về tầm quan trọng của việc tăng cường sức mạnh của NATO và liên minh xuyên Đại Tây Dương, cũng như nhấn mạnh ý định ưu tiên cho việc đảm bảo an ninh năng lượng. Theo tôi, vấn đề ở Đông Âu chỉ là ví dụ mới nhất cho việc “tại sao sự dễ tổn thương về năng lượng có thể hạn chế và làm giảm hiệu quả của các lựa chọn đối ngoại.” Trong cuộc điện đàm với Ngoại trưởng Ba Lan Radoslaw Sikorski, chúng tôi đã bàn thảo về nguy cơ này. Ông Sikorski muốn ủng hộ một đường ống đi qua vùng Balkan và Thổ Nhĩ Kỳ và tiếp cận với nguồn khí đốt của biển Caspian, đường ống này có tên là “Hành lang phía Nam” - một trong những kế hoạch ngoại giao năng lượng quan trọng nhất của chúng ta. Tuy nhiên Azerbaijan - nước sở hữu trữ lượng dầu khí lớn và là chủ chốt trong kế hoạch - lại đang vướng vào một xung đột lâu năm với Armenia. Tôi đã bổ nhiệm Đại sứ Richard Morningstar làm phái viên về vấn đề này, và ông ấy đã làm việc khá hiệu quả với Tổng thống Azerbaijan Ilham Aliyev. Tôi cũng đến thăm Azerbaijan 2 lần nhằm thúc đẩy nỗ lực tìm kiếm hòa bình, xây dựng đường ống và tăng cường cải cách dân chủ. Khi tôi rời Bộ Ngoại giao, các thỏa thuận đã được kí kết xong và việc xây dựng sẽ bắt đầu vào năm 2015, dự kiến hoàn thành vào năm 2019. Tôi cũng đã thúc giục các lãnh đạo EU quan tâm hơn đến vấn đề năng lượng trong cuộc gặp vào tháng 3/2009, và Hội đồng năng lượng Mỹ - EU đã được thành lập, với các chuyên gia năng lượng Mỹ đến các nước châu Âu và giúp họ tìm ra các nguồn năng lượng thay thế khí đốt của Nga. Tháng 7/2010, tôi và Ngoại trưởng Sikorski tuyên bố thỏa thuận hợp tác Mỹ - Ba Lan về việc hợp tác khai thác khí đá phiến bằng các biện pháp an toàn và thân thiện với môi trường. Việc nước Mỹ giảm nhập khẩu khí đốt cũng góp phần làm giảm ảnh hưởng của Nga, số khí đốt đó được chuyển đến châu Âu và tạo ra thế cạnh tranh với Gazprom.
Các nỗ lực trên không qúa nổi bật ở Mỹ, tuy vậy chắc chắn Putin đang cảm thấy ảnh hưởng của Nga giảm dần qua việc Ukraine đàm phán thỏa thuận thương mại với EU. Putin dọa tăng giá khí đốt và đòi khoản nợ 3 tỉ USD của Ukraine nếu thỏa thuận được kí kết. Vào tháng 11, Tổng thống Yanukovych tuyên bố tạm hoãn đàm phán thỏa thuận với EU và chấp nhận gói cứu trợ 15 tỉ USD từ Kremlin. Nhiều người Ukraine đã tức giận với quyết định trên, đặc biệt là người dân Kiev và các cộng đồng không nói tiếng Nga. Các cuộc tuần hành nổ ra và leo thang khi lực lượng chính phủ bắn vào người biểu tình. Tổng thống Yanukovych đã phải đồng ý cải cách hiến pháp và tổ chức bầu cử sớm, tuy nhiên đám đông không hài lòng và yêu cầu Yanukovych từ chức. Đột nhiên ông ta rời bỏ cung điện của mình, trốn về miền Đông và sau đó chạy sang Nga, và một chính phủ lâm thời được thành lập. Diễn biến của cuộc khủng hoảng làm Moscow rất lo lắng; Putin đã đưa quân vào bán đảo Crimea (một phần của nước Nga trước 1954 và có nhiều người gốc Nga cũng như các căn cứ hải quân ). Mặc kệ các cảnh báo từ Tổng thống Obama, các nhà lãnh đạo châu Âu và Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Điện Kremlin đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc sáp nhập với nước Nga ở Crimea. Tất cả các nỗ lực từ năm 2009 bao gồm phát triển NATO, hàn gắn quan hệ xuyên Đại Tây Dương và giảm sự lệ thuộc vào nguồn năng lượng của Nga đã đưa chúng ta vào một vị thế thuận lợi để đối phó với Nga. Tuy nhiên Putin vẫn còn nhiều quân bài chưa lật và chúng ta phải tiếp tục tập trung nhiều hơn nữa.
Trong nhiều năm qua tôi đã cố gắng tìm hiểu về Putin. Trong một chuyến thăm ở ngôi nhà ngoại ô của ông ấy vào năm 2010, chúng tôi đã có một cuộc tranh luận sôi nổi về thương mại và WTO. Tuy nhiên Putin gần như không chịu lắng nghe tôi và tôi đã thử một cách khác. Tôi biết ông ấy cũng quan tâm đến việc bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên giống như tôi, vì vậy đột nhiên tôi hỏi: “Thủ tướng Putin, cho tôi biết ông đang làm gì để cứu loài hổ Siberia khỏi tuyệt chủng.” Và tôi có được sự chú ý của ông ấy; Putin đứng dậy và mời tôi đi cùng đến văn phòng của ông ấy. Chúng tôi đi qua những vệ sĩ to con - họ trông có vẻ khá ngạc nhiên - đến một căn phòng có cửa bọc thép, trong đó có bàn làm việc của Putin và một bản đồ nước Nga cỡ lớn. Ông ấy bắt đầu trình bày về số phận của loài hổ ở phía đông, gấu trắng ở Bắc cực và một số loài vật đang gặp nguy hiểm. Thật thú vị khi nhìn thấy một thái độ khác của Putin; ông ấy thậm chí còn mời chồng tôi đi thăm gấu Bắc cực ở quần đảo Franz Josef. Tôi nói rằng sẽ chuyển lời mời, và nếu chồng tôi không đi được thì có thể tôi sẽ đi thay; Putin nhăn trán. (Và sau đó thì cả hai chúng tôi đều không đi được). Một cuộc đối thoại riêng tư khác với Putin diễn ra bên lề hội nghị APEC ở Vladivostok năm 2012. Tổng thống Obama bận chuẩn bị cho chiến dịch tranh cử nên tôi đi dự thay. Putin và Lavrov đã phê bình sự vắng mặt của Tổng thống Obama và các chỉ trích của tôi về sự ủng hộ chính quyền al-Assad của Nga. Tuy vậy trong bữa tối, do Mỹ là nơi tổ chức hội nghị năm ngoái, nên tôi và ông Putin đã được xếp ngồi cạnh nhau. Chúng tôi thảo luận về các vấn đề như biên giới với Trung Quốc ở phía đông hay các nước cộng hòa Hồi giáo bất ổn ở trong và ngoài nước Nga. Tôi cho biết gần đây có đến thăm đài tưởng niệm hơn 600 nghìn nạn nhân của cuộc vây hãm St. Petersburg (trước đây là Leningrad) kéo dài từ năm 1941 đến 1944. Điều này đã thu hút sự đồng cảm của nhà lãnh đạo yêu thích lịch sử; sau đó Putin kể cho tôi một câu chuyện về bố mẹ ông ấy mà chưa bao giờ tôi được nghe nói đến. Trong chiến tranh bố Putin trở về nghỉ phép trong một thời gian ngắn. Khi đến gần tòa chung cư nơi mình ở, ông ấy thấy một đống xác chết trên phố và người ta đang chất các xác chết đó lên xe tải. Ông ấy lại gần và thấy một phụ nữ đi giày giống vợ mình; ông ấy chạy đến đòi xác của vợ và nhận ra bà ấy vẫn còn sống. Ông ấy bế vợ về nhà và chăm sóc kĩ lưỡng; 8 năm sau, con trai Vladimir của họ ra đời. Sau này khi tôi kể câu chuyện cho Đại sứ Mike McFaul - chuyên gia nổi tiếng về Nga - ông ấy cũng nói chưa từng nghe chuyện này bao giờ. Tôi không có cách nào để xác thực, nhưng câu chuyện đã giúp tôi hiểu được phần nào con người của ông ấy: Putin luôn thử bạn, đẩy bạn đến các ranh giới.
Vào tháng 1/2013, tôi gửi cho Tổng thống Obama một bản ghi nhớ về Nga và dự đoán về Putin. 4 năm đã qua từ khi chúng tôi bắt đầu công cuộc tái cài đặt quan hệ; tôi tin rằng lợi ích quốc gia dài hạn của Mỹ có bao gồm việc duy trì một mối quan hệ hợp tác tích cực với Nga. Tuy nhiên chúng ta cần phải có cái nhìn thực tế với ý đồ của Putin nhằm đề ra các chính sách hợp lý. Tôi nói thẳng với Tổng thống rằng quan hệ với Nga sẽ còn nhiều trắc trở. Medvedev có thể quan tâm đến việc cải thiện quan hệ với phương Tây, nhưng Putin vẫn có ấn tượng là phương Tây cần nước Nga hơn nước Nga cần phương Tây, và Mỹ được coi là một đối thủ của Nga. Ngoài ra, Putin cũng lo ngại về sự chống đối trong nội bộ và sự sụp đổ của các chế độ chuyên chế ở Trung Đông; tất cả các điều trên gây khó khăn cho sự hợp tác giữa hai bên. Từ đó, tôi đề nghị một hướng đi mới vì công cuộc tái cài đặt đã cho chúng ta một số lợi ích ngắn hạn của hợp tác đa phương, nhưng giờ đây nên tạm dừng tìm kiếm các lĩnh vực hợp tác mới. Không nên tỏ ra quá hứng thú trong hợp tác Mỹ - Nga; không nên quá tập trung vào Putin; từ chối đến hội nghị thượng đỉnh ở Moscow vào tháng 9; và đảm bảo rằng thái độ bất hợp tác của Nga không ảnh hưởng đến các chính sách và lợi ích của Mỹ ở châu Âu, Trung Á, Syria và các điểm nóng khác. Chỉ có sự cứng rắn và quyết tâm mới lay chuyển được Putin, điều đó sẽ gửi một thông điệp rằng các hành động của ông ấy sẽ nhận được các hậu quả xứng đáng và nước Mỹ luôn đứng bên các đồng minh của mình. Mọi người ở Nhà Trắng có vẻ không thích các phân tích hơi nặng nề của tôi; Tổng thống đã nhận lời mời của Putin. Nhưng tình hình xấu dần đi vào mùa hè, đặc biệt là sau vụ Edward Snowden xin tị nạn ở Nga và khủng hoảng Ukraine. Tiềm năng phát triển của nước Nga đang phá hỏng, các trí thức và dòng vốn đang dần rời khỏi Nga. Tuy nhiên điều đó có thể thay đổi; nước Nga có nguồn tài nguyên khổng lồ và một lực lượng lao động có giáo dục; họ có thể tiến tới một tương lai hòa bình và thịnh vượng như một phần của châu Âu qua các thỏa thuận kinh tế, hợp tác khoa học và phát triển công nghệ cao… Lợi ích chiến lược lâu dài của Nga cũng được bảo đảm nếu Putin không có ý định khôi phục Liên Xô; ông ấy có thể hợp tác với châu Âu và Mỹ trong việc giải quyết phiến quân Hồi giáo ở phía Nam và cả Trung Quốc nữa. Putin sẽ coi Ukraine như một cầu nối giữa châu Âu và Nga, đem lại sự phồn vinh và an toàn cho cả hai bên. Tuy vậy rất không may, nước Nga đang bị kẹt giữa quá khứ không thể lãng quên và tương lai không thể nắm giữ.